khuyên đỏ, của quan nhất phẩm thích một khuyên đen; của quan nhị
phẩm trở xuống thích hai khuyên đen”
Như vậy, chính sách hạn nô của Hồ Quý Ly bao gồm mấy nội dung
chủ yếu sau đây:
– Mỗi quý tộc vẫn được nuôi một số gia nô nhẩt định (không rõ bao
nhiêu - TG); sổ còn dư ra phải sung công làm quan nô của Nhà nước.
– Nhà nước xuất công quỹ bù cho quý tộc, mỗi gia nô bị sung công
là 5 quan tiền.
– Để biết nô tỳ của ai, mỗi gia nô đều phải ghi dấu hiệu vào trán.
2. Lý do, mục đích ban hành chính sách hạn nô
– Cùng với chính sách hạn điền, phép hạn nô của Hồ Quý Ly nhằm
hạn chế quyền lợi và làm suy yếu lực lượng của các nhà quý tộc có
quyền lợi gắn chặt với vương triều Trần vừa sụp đổ. Đại Việt sử ký
toàn thư chép: “Bấy giờ bọn sĩ đại phu tham phú quý, mong được lòng
của họ , dâng thư khuyên giết hại con cháu nhà Trần, giảm bớt số
ruộng và nô để nén bớt thế lực của họ, như bọn Hoàng Hối Khanh,
Nguyễn Hy Chu, Đổng Thức, còn lại thì nhiều vô kể”
.
Thực vậy, trong xã hội thời Trần, quyền sở hữu đất đai của tư nhân
được pháp luật thừa nhận vô giới hạn, nhất là đối với các vương hầu,
quý tộc được phép khai khẩn và chiếm hữu, mở rộng diện tích các
điền trang, thái ấp. Tầng lớp địa chủ chiếm hết ruộng đất, làm nông
dân không có tư liệu sản xuất để sinh sống. Thiên tai thường xuyên
xảy ra gây cho nhân dân cảnh nghèo đói. Dân nghèo không còn con
đường nào khác hơn là bán ruộng đất, nhà cửa hoặc tự bán thân mình,
bán vợ đợ con đi làm nô (đày tớ trai), tỳ (đày tớ gái) cho địa chủ.
Thành thử chế độ nô tỳ đã bị hạn chế dưới thời Lý thì lại tái sinh dưới
thời Trần, phát triển mạnh từ tháng 10 năm Bính Dần (1266) đời Trần
Thánh Tông đến tháng 6 năm Đinh Sửu (1397) đời Trần Thuận Tông.
Tầng lớp nô tỳ ngày càng trở nên đông đảo, số phận của những
“công cụ biết nói” đó ngày càng gắn chặt vào địa chủ, quý tộc. Họ trở