đẳng 3 quan tiền giấy. Tiền nộp hàng năm của đinh nam trước thu 3
quan, nay chiếu theo số ruộng, người nào chỉ có 5 sào ruộng thì thu 5
tiền giấy; từ 6 sào đến 1 mẫu thì thu 1 quan; 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5
sào thu 1 quan 5 tiền; từ 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu thu 2 quan; từ 2 mẫu
1 sào đến 2 mẫu 5 sào thu 2 quan 5 tiền; từ 2 mẫu 6 sào trở lên thu 3
quan. Đinh nam không có ruộng và trẻ mổ côi, đàn bà góa, thì dẫu có
ruộng cũng thôi, không thu”
Về thuế thuyên buôn, Đại Việt sử ký toàn thư chép sự kiện cuối năm
1400 như sau: “Hán Thương đánh thuế các thuyền buôn, định 3 mức
thượng, trung, hạ. Mức thượng đánh thuế mỗi thuyền 5 quan, mức
trung 4 quan, mức hạ 3 quan”
.
1. Thuế đinh
Thuế đinh là sắc thuế đánh vào bản thân từng con người (nhân
đinh).
Sử cũ chép rõ sắc thuế này xuất hiện từ đầu đời Trần; vua Trần Thái
Tông năm 1242 định người nào không có ruộng đất thì miễn; có 1, 2
mẫu nộp 1 quan; có 3, 4 mẫu nộp 2 quan; có từ 5 mẫu trở lên nộp 3
quan
. Đến đời Trần Phế Đế, năm 1378, theo đề nghị tăng thuế của
Đỗ Tử Bình, phỏng theo phép dung (thuế thân) của nhà Đường “có
thân thì phải có dung”, hễ ai ở đất nhà vua, làm dân của vua thì phải
chịu thuế thân, nên định mỗi đinh nam đều phải nộp 3 quan tiền,
không kể có ruộng hay không
Nay theo chủ trương cải cách của Hồ Quý Ly, lại căn cứ theo sổ
ruộng mà thu thuế đinh với mức cụ thể như sau:
– Có ruộng 5 sào: nộp 5 tiền giấy.
– Có từ 6 sào đến 1 mẫu: nộp 1 quan.
– Có từ 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5 sào: nộp 1 quan 5 tiền.
– Có từ 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu: nộp 2 quan tiền.
– Có từ 2 mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào: nộp 2 quan 5 tiền.
– Có từ 2 mẫu 6 sào trở lên: nộp 3 quan.