CẢI CÁCH HỒ QUÝ LY - Trang 98

– Đinh nam không có ruộng

(*)

, trẻ mồ côi, đàn bà góa: đều được

miễn thuế.

Như vậy, so với chế độ thuế đinh ban hành trước cải cách thì mức

thuế mới nói chung có giảm nhiều, theo hướng chiếu cố đối với người
nghèo, tức là giảm thuế đối với người có ít ruộng, mức giảm có thể chỉ
còn 1/6 mức thuế cũ. Đồng thời, qua đó Nhà nước chính thức quy định
diện chính sách được hưởng sự nâng đỡ bằng cách cho miễn thuế hoàn
toàn đối với người không có ruộng, trẻ mồ côi và đàn bà góa

(*)

.

2. Thuế điền

Thuế điền là sắc thuế đánh vào ruộng đất canh tác thuộc sở hữu tư

nhân, đối tượng thu thế là người có điền sản.

Sử chép rõ sắc thuế này có từ đời Lý, năm 1092, vua Lý Nhân Tông

định mức thu thuế tô ruộng mỗi mẫu là 3 thăng thóc. Sang đời Trần,
năm 1242, vua Trần Thái Tông định điển tô đồng đểu mỗi mẫu phải
nộp 100 thăng thóc. Mức thu 100 thăng thóc/mẫu qua các đời sau đều
không thấy có sự điều chỉnh lần nào, kể cả lần tăng thuế dưới đời Trần
Phế Đế năm 1378 theo đề nghị của Đỗ Tử Bình... Song, Đại Việt sử ký
toàn thư
Việt sử thông giám cương mục ghi sự kiện về thuế năm
1402 đều cho biết: đời Trần đối với tư điền thu mỗi mẫu 3 thăng thóc;
đất bãi trồng dâu thu mỗi mẫu 9 quan hoặc 7 quan tiền.

Nay theo cải cách của Hồ Quý Ly, mức thuế điền định lại như sau:
- Đối với tư điền: thu mỗi mẫu 5 thăng thóc.
- Đối với đất trồng dâu: chia ra 3 hạng:
+ Thượng đẳng điền: thu mỗi mẫu 5 quan tiền.
+ Trung đẳng điền: thu mỗi mẫu 4 quan tiền.
+ Hạ đẳng điền: thu mỗi mẫu 3 quan tiền.
Như vậy, so với chế độ thuế điền hiện hành trước cải cách thì mức

thuế mới đối với tư điển có tăng mỗi mẫu 2 thăng thóc (tức tăng 2/3
mức cũ) nhưng mức thuế đối với đất trổng dâu là đất có quan hệ mật

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.