này, gồm cả Mèo, Dao, Tày, Thái, đứng ra lập dân dũng, hỗ trợ cho quân
triều đình; khi giặc đến thì đánh giặc tại chỗ, không chờ lệnh trên.
Được giao phòng thủ thành Hưng Hóa, Vĩnh Phúc dốc sức cùng quân
lính tu bổ công sự, hào lũy. Sau mấy trận Đề đốc Tạ Hiện đánh Pháp có
hiệu quả ở quanh thành Nam Định, ông thấy rõ hơn một điều: mất thành
chưa phải đã mật tỉnh. Giặc chỉ loanh quanh ở vùng gần thành. Ta vẫn còn
dân và đất ở các vùng xa thành, còn tạo được thế vây thành đánh giặc. Vì
vậy, chẳng những phải bảo toàn lực lượng quân triều đình, mà còn phải lập
nhiều đội dân dũng.
Trước kia vua không cho lập dân dũng, là do sợ gây lực lượng chống
triều đình. Lúc này vua đã cho, và Quang Bích lập nhiều dân dũng là đúng.
Quang Bích đưa Vĩnh Phúc qua tả ngạn sông Thao, thăm các nương
ngô, ruộng lúa của người Kinh, từ hữu ngạn sang khai hoang, lập làng mới.
Thêm vùng dân cư lân cận là thêm quân, thêm lương cho sơn phòng. Vùng
này trước đây rừng rậm người thưa, nay mở đường đi và bến sông, thuận
tiện giao thông qua lại. Một việc mà Quang Bích lo ngại là kho tàng ở đây
vơi cạn. Mấy vụ liền hết hạn lại lụt, dân không còn tiền thóc để nộp thuế.
Còn một số gươm giáo, cung nỏ tích góp được qua mấy năm, ông bàn với
Vĩnh Phúc: "Tôi muốn đem phát cho các đội dân dũng. Phòng khi không
giữ được thành, bị mất cả lương thực, vũ khí". Vĩnh Phúc tán thành: "Cần
làm như vậy". Và ông kể khi quân Thái Bình Thiên Quốc mới nổi lên cũng
chỉ có gươm giáo, cung nỏ. Dần dần qua chiến đấu, cướp súng đạn của địch
để trang bị cho mình. Ông đề nghị Quang Bích cho mở rộng hơn nữa việc
lập dân dũng trong các người thiểu số, ở các châu, bản xa hơn, sâu hơn.
Phòng khi không giữ được thành Hưng Hóa, quân tỉnh lưu tán chưa kịp hồi
ngũ thì lấy dân dũng thay thế; đánh giặc ở bất cứ nơi nào, lấy đất làm địa
bàn cho mình.
N-guồn: -ire-ad-.vn