pháo binh để chuẩn bị cho cuộc chiến ở vùng Cao nguyên Golan. Chỉ
huy vùng Bờ Tây của Jordan cam kết là “trong vòng ba ngày chúng
ta sẽ đến Tel Aviv”.
Về phía mình, quân Israel ra lệnh tổng động viên, bao gồm cả
quân dự bị, gồm 264.000 người. Dù số quân đó không thể duy trì
lâu dài, vì quân dự bị đóng vai trò sống còn trong vận hành cuộc
sống hàng ngày của đất nước, phóng viên Hoa Kỳ James Reston,
trong New York Times ngày 23 tháng Năm năm 1967, nhận xét: “Về
mặt kỷ luật, huấn luyện, tinh thần, trang bị và năng lực nói chung,
quân đội của Nasser và các lực lượng Ả Rập khác, không kể đến trợ
giúp trực tiếp từ Liên Xô, không phải là đối thủ của người Israel...”.
Cuộc chiến tranh sáu ngày bắt đầu ngày 5 tháng Sáu. Lúc 7:45
sáng ngày 5 tháng Sáu, khi còi báo động vang lên trên toàn Israel
cũng là lúc không quân Israel (IAF) mở Chiến dịch Focus (Moked).
Gần 200 chiếc máy bay phản lực cất cánh từ các sân bay Israel ào
ạ
t tấn công các sân bay của Ai Cập. Cơ sở phòng không của Ai Cập
rất yếu, không có sân bay nào được trang bị boong-ke bọc thép để
bảo vệ máy bay. Máy bay của Israel bay ra Địa Trung Hải trước khi
vòng lại hướng về Ai Cập. Trong khi đó, phía Ai Cập lại tự làm hại
mình bằng cách đóng toàn bộ hệ thống phòng không của họ, vì họ
sợ lực lượng nổi dậy Ai Cập có thể bắn hạ máy bay chở Nguyên soái
chiến trường Amer và Trung Tướng Sidqi Mahmoud, đang trên
đường từ al Maza tới Bir Tamada ở Sinai để gặp các chỉ huy tại đó. Dù
thế nào đi chăng nữa thì việc đó cũng không làm tình hình thay đổi
mấy, vì các phi công Israel bay rất thấp để tránh radar và bay dưới
tầm mà tên lửa phòng không SA-2 có thể bắn được họ. Các phi công
Israel phối hợp nhiều chiến thuật cùng lúc: ném bom và dùng hỏa
lực oanh tạc các máy bay đang đậu trên đường băng, ném bom xuyên
phá đường băng để máy bay Ai Cập không cất cánh được, làm mồi
cho các đợt không kích tiếp theo của máy bay Israel. Cuộc không kích
thành công vượt mức, phá hủy gần như toàn bộ không quân Ai Cập