đánh phủ đầu. Nội các Israel nhóm họp ngày 23 tháng Năm quyết
định mở cuộc tấn công nếu eo biển Tiran không được mở trở lại
ngày 25 tháng Năm. Lãnh đạo Israel quyết định là nếu như Hoa Kỳ
không làm gì, và Liên Hợp Quốc án binh bất động, thì Israel phải tự
hành động. Ngày 1 tháng Sáu, tướng Moshe Dayan được cử làm Bộ
trưởng Quốc phòng Israel. Israel đã sẵn sàng.
Tháng Sáu năm 1967, trong một kế hoạch quyết liệt nhằm hủy
diệt Israel, quân đội Ả Rập thống nhất triển khai với số lượng lớn
dọc các đường biên giới với Israel, trong khi Ai Cập đóng cửa eo biển
Tiran và Nasser yêu cầu Lực lượng phản ứng nhanh của Liên Hợp
Quốc UNEF (United Nations Emergency Force) rời Ai Cập. Để chuẩn
bị cho cuộc chiến, Ai Cập tập trung khoảng 100 ngàn trong tổng số
160 ngàn quân về Bán đảo Sinai, bao gồm toàn bộ bảy sư đoàn
(bốn sư đoàn bộ binh, hai sư đoàn xe bọc thép và một sư đoàn cơ
giới), cũng như bốn lữ đoàn bộ binh độc lập và bốn lữ đoàn bọc thép
độc lập. Không dưới một phần ba trong số đó là các binh lính kỳ cựu
từ cuộc can thiệp của Ai Cập vào nội chiến Yemen cùng với khoảng
một phần ba khác là quân dự bị. Lực lượng này có 900-950 xe tăng,
1.100 xe bọc thép (APC) và hơn 1.000 khẩu pháo. Không quân Ai Cập
được cho là lớn và hiện đại nhất trong số các quốc gia Ả Rập, với
khoảng 450 máy bay chiến đấu của Liên Xô, trong đó có nhiều
máy bay MiG- 21 hiện đại bậc nhất lúc đó. Trong thời gian đó, Nasser
tiếp tục tiến hành các hoạt động nhằm gia tăng mức động viên
quân đội từ Ai Cập, Syria và Jordan, nhằm gia tăng sức ép lên Israel.
Jordan chuẩn bị cho cuộc chiến với chín lữ đoàn đóng ở Bờ Tây,
gồm 45 ngàn quân, 270 xe tăng, 200 trọng pháo, với hai trung đoàn
bọc thép tinh nhuệ tại Thung lũng Jordan. Khoảng 100 xe tăng và một
sư đoàn bộ binh Iraq cũng được đặt ở tình trạng báo động gần biên
giới Jordan. Hai phân đội máy bay chiến đấu Hawker Hunter và
MiG-21, cũng được chuyển về gần các căn cứ sát biên giới Jordan.
Syria có 75 ngàn quân, chia làm chín lữ đoàn, hỗ trợ bởi xe tăng và