những cảm xúc cá nhân tinh tế bên cạnh những đề tài tôn giáo.
Những khoảng thời gian hòa bình cũng đã mang lại sự giao thoa của
văn hóa: Judah Halevi và Moses ibn Ezra đã pha trộn vận luật của
thơ ca Ảrập vào thơ ca của họ; và tác phẩm Book of Delights (Sách
của những niềm vui) của Joseph ibn Zabara đã cho thấy những
hình ảnh đầy màu sắc của văn hóa dân gian Ảrập, Hy Lạp và Ấn
Độ.
Các tác phẩm tiếng Yiddish
Những tác giả hay tác phẩm tiêu biểu Yiddish đầu tiên bao gồm
những nhà văn nữ như Glückel của Hameln, hoặc được đặc biệt
nhằm vào phụ nữ, chẳng hạn như các bản tóm lược Kinh
ThánhTze’nah u-Re’nah (còn gọi là Kinh Thánh của phụ nữ –
Women’s Bible) được viết bằng tiếng Yiddish của Rabbi Jacob ben
Isaac Ashkenazi (1550-1625). Nhà thơ Do Thái sinh tại Nga Abraham
Goldfaden được ca tụng là “Shakespeare của Yiddish”. Tại Romania
ông đã thành lập nhà hát tiếng Yiddish đầu tiên vào năm 1876 và
đã sáng tác tất cả 40 vở kịch trong thời gian còn sống. Một vài
người đã chế nhạo ông là “văn hóa thấp”, và địch thủ của ông, nhà
soạn kịch Jacob Gordin đã viết vở kịch The Jewish Qeen Lear
(Hoàng hậu Do Thái Lear) đối nghịch với vở kịch King Lear của
Shakespeare.
L.L. Zamenhof – tác giả của cuốn sách ngữ pháp Yiddish đầu
tiên – đồng thời cũng là người đã sáng tạo ra Esperanto (Quốc tế
ngữ). Bộ ba học giả Yiddish nổi danh thường được nhắc đến là
Mendeke Moikher Sforim, một nhà tư tưởng và phê bình xã hội;
Sholem Aleichem, tác giả của cuốn sách rất được ưa thích Fiddler
on the Roof (Người chơi vĩ cầm trên mái nhà) mà sau này đã được
chuyển thể thành bộ phim cùng tên; và Isaac Leib Peretz, một nhà