Sỹ, lại thích tìm tòi những thông tin xác thực trong tiểu sử của Moses,
Solomon và Jesus; và cuốn Last of the Just của Andre Schwartz-
Bart – một cuốn tiểu thuyết lịch sử Do Thái từ cuộc Thập tự chinh
cho đến trại tập trung Auschwitz – lại là một tiểu thuyết cổ điển
kiểu Pháp. George Perec sống sót từ Holocaust đã mạnh dạn thử
nghiệm với văn chương Pháp.
Trong các thế hệ tiếp theo, chủ đề hoài hương đã xuất hiện
như cuốn The Apprenticeship of Duddy Kravitz (Thời gian học
nghề của Duddy Kravitz) của nhà văn Mordechai Richler, hoặc
những truyện ngắn của nhà văn Leo Rosten sống tại New York.
Ngày nay, các tác giả Do Thái Mỹ đã chuyển hướng từ văn chương di
dân sang dòng chính của văn chương Mỹ. Họ viết bằng tiếng Anh
và có hai tác giả rất mê mẩn với khu định cư của Zionist: nhà thơ
Jessie Sampter đã quay lại Palestine năm 1919, và tiểu thuyết gia với
ngòi bút khá liều lĩnh sinh tại Chicago là Meyer Levin.
Các nhà văn Do Thái Mỹ
Isaac Bashevis Singer là một ngoại lệ vì nhà văn vẫn còn viết
bằng tiếng Yiddish. Năm 1978, Singer là tác giả Yiddish đầu tiên
được nhận giải Nobel Văn học. Mặc dù định cư trong một khu Do
Thái đóng kín, các tác phẩm của Singer vẫn mở rộng và đề cập đến
những chủ đề chung của xã hội.
Với Bernard Malamud, việc tự nhận thức là người Do Thái của ông
được thể hiện mạnh mẽ qua các tác phẩm Dubin’s Lives (Những cuộc
đời của Dubin) và The Jewbird. Everybody is a Jew but they don’t
know it (Ai cũng là một người Do Thái nhưng họ không biết), ông
viết. Malamud cho rằng chính người dân thành thị phương Tây giờ
đây đang chia sẻ những gì từng được người Do Thái bảo tồn.