Saul Bellow sinh tại Canada – đoạt giải Nobel Văn học năm 1976
– một mẫu mực văn chương hàng đầu của Mỹ đã mổ xẻ sự tha hóa
thời hậu chiến trong các tác phẩm Herzog và The Humboldt’s gift
(Quà tặng của Humboldt). Những cuốn sách dân túy hơn của Chaim
Potok đã đem đến sự nổi bật cho thế giới Chính thống bị bỏ quên
đã lâu bởi các văn sỹ Mỹ, trong khi Joseph Heller, với Catch-22 là
một cuốn sách bán chạy nói về sự sùng bái, sau này đã viết những
tác phẩm thô tục như God Knows (Chúa biết) về vua David. Ngay
cả Allen Ginsberg, một nhà thơ Beatnik
chuyển đổi Phật giáo, đã
phải nhờ vào nguồn gốc Do Thái của mình trong các bài thơ Howl
và Kaddish trong tuyển tập thơ của ông đăng tải trong Penguin
Modern Classics.
Các tác phẩm của Norman Mailer đứng giữa báo chí và tiểu
thuyết, bắt đầu với The Naked and the Dead (Kẻ trần truồng và
Thần Chết – 1948), được xếp hạng trong 100 tác phẩm nổi tiếng
nhất của thế kỷ 20, viết về sự sợ hãi của con người, nhất là của
những người lính trước chết chóc của chiến tranh; và các bài tiểu
luận về phản kháng ở Việt Nam, chủ nghĩa cực đoan và bảo thủ. Có
lẽ nặng lời nhất trong bài phê bình của ông về người Do Thái đương
thời là Philip Roth, với Goodbye Columbus (Tạm biệt Columbus) và
Portnoy’s Complaint (Lời phàn nàn của Portnoy), những truyện
ngắn đầy ắp hoang tưởng tình dục và nghiêng ngả ở một người mẹ
độc đoán.
Các nhà văn Do Thái Anh quốc
Israel Zangwill (1864-1926), được biết như Dickens của người Do
Thái, đã viết King of the Schnorrers (Vua ăn mày), một vở hài kịch
nhắm vào mạng sườn của tầng lớp tinh hoa Sephardi. Kiệt tác của
ông Children of the Ghetto (Những đứa trẻ khu ổ chuột) giới thiệu