những nhà cách mạng đã đưa ý tưởng phục quốc trở thành hiện thực
vào những năm 1890 khởi đầu với khái niệm Vùng đất Israel.
Vào thế kỷ 18, ở Tây Âu, người Do Thái đã có lúc tưởng rằng họ
được chấp nhận vào xã hội Tây Âu hiện đại như những người bình
đẳng. Tuy thế cảm giác bài Do Thái vẫn còn nằm sâu dưới bề mặt
của châu Âu Kitô giáo. Sự thù nghịch vẫn tồn tại và rất nhiều
người Do Thái tin rằng cho dù các quốc gia châu Âu tự do như thế
nào đi chăng nữa, dân tộc Do Thái sẽ không bao giờ được đối xử
bình đẳng cho đến khi họ có một quốc gia của riêng mình.
Năm 1862, triết gia Do Thái tại Đức là Moses Hess (1812-1875)
xuất bản cuốn sách có tựa đề Rome and Jerusalem (Thành Rome
và Jerusalem) trong đó tuyên bố rõ rằng tình cảm quốc gia của
người Do Thái là không thể dập tắt được và chỉ có thể hiện thực hóa
bằng cách quay trở về Palestine. Nếu cần thiết người Do Thái
sẵn sàng hy sinh sự tự do trong hoàn cảnh Diaspora cho sự nghiệp
này.
Ít người nhận thức được cảm nghĩ của Hess trong cuốn sách cho
đến khi hai người đàn ông từ Odessa (Nga), Leon Pinsker (1821-
1891) và Ahad Ha-Am (1856-1927), làm sống lại những ý tưởng của
nó. Thành phố cảng Odessa bên biển Hắc Hải (Black Sea) có một
phần ba dân số là người Do Thái và là nhà của 150.000 người Do
Thái thế tục có học hành và đang cố gắng hòa đồng vào xã hội
Nga lúc bấy giờ. Tuy nhiên, những cuộc tàn sát năm 1881 làm vỡ nát
giấc mơ hòa nhập và khiến Pinsker cho ra đời ngay cuốn sách
Auto-emancipation (Tự-Giải Phóng): “Đối với những người đang
sống, người Do Thái là người chết; đối với người bản địa, người
Do Thái là người ngoài hành tinh và vô gia cư; đối với người yêu
nước, người Do Thái là kẻ không tổ quốc; và đối với mọi tầng
lớp, họ là những kẻ đáng ghét”. Pinsker kết luận, người Do Thái chỉ
có thể được kính trọng khi họ tự giải phóng mình.