mà thành thế Lục Quân, vừa thêm cho tả Thốn, vừa bớt cho hữu Thốn, hữu
Quan, để lấy lại thế quân bình bình thường.
Mẫu Đơn Bì: Có màu đỏ, vị the mặn, tánh mát, là vỏ rễ cây Mẫu Đơn,
chuyên vào Thận âm, ảnh hưởng mạch tả Xích, kích thích hượt huyết để
giúp cho tuần hoàn Thận được tăng cường mà giải trừ mạch thiệt ở tả Xích,
người ta còn dùng để trị tánh nóng trong xương mà không mồ hôi.
Hương Phụ: Là củ cỏ Gấu, vị cay ngọt, tánh ấm, làm thông hơi, khai uất,
đỡ đau, điều chỉnh kinh kỳ cho phụ nữ, lại còn làm tiêu thức ăn đình đốn,
làm cho tạng Tỳ tạng Gan được lưu thông. Nếu dùng chung với Đơn Bì thì
tác dụng khai thông kinh kỳ càng mạnh.
Uất Kim: Là củ chánh của nghệ Xà Cừ, bầu nước dưới chót rễ gọi là Uất
Kim Tử, có nhiều chất bột. Củ màu vàng đỏ, vị ngọt thơm, chuyên vào hệ
thống của Tim và Tỳ, khai huyết ứ, thông uất. Chỗ nào huyết bị đông đặc
trong hệ thống Tâm Tỳ nó giúp lưu thông rất tốt, không những không có hại
mà còn chữa được chứng chai cứng Bọc Tim (xin đừng lầm lẫn với Cương
Hoàng) cho nên mạch hai bộ Thốn uất kết, to nghịch mà nghiêng về hữu
Thốn thì không thể thiếu.
Bạch Giới Tử: Là hột cải bẹ trắng, vị cay, tánh ấm. Chuyên vào thông
đàm ở các khiếu nhỏ thượng tiêu, khai thông mạch máu bị mỡ vít nghẹt, tan
đàm ở Phổi. Mạch hữu Thốn hưỡn, tán, nghịch, đều rất cần.
Nam Sài Hồ: Là rễ cây cỏ ruột gà, vốn có vị ngứa, the, tánh tan, thuộc về
loại cỏ mọc bằng mặt đất, nên có công năng khai thông Chẽn vừng để thông
uất. Nếu đi chung với Bán Hạ thì Bán Hạ làm hạ khí ở cuống Vị, Nam Sài
Hồ làm thông khí khai uất Chẽn vừng. Cả hai nương nhau mà thành diệu
dụng. Trường hợp mạch tả Quan phù huyền, không thể thiếu.
Bạch Thược: Là củ cây Thược Dược hoa trắng hay hoa vàng, có nhiều
chất bột, vị chua, chuyên giúp cho sức thu liễm của Phổi để chế ngự Gan, có
thể dùng trong trường hợp bệnh ỉa, kiết lỵ, và đau bụng chứng nóng, bệnh
thiệt. Những vị thuốc có nhiều chất bột bao giờ cũng mang theo nhiều chất