bổ, nên trường hợp mạch hữu Thốn nghịch to, tả Quan phù huyền sác, tả
Thốn hư sắc uất kết, dùng chung với Đương Quy rất hay.
Đương Quy: Là một loại củ của loài thảo có màu vàng hơi đỏ, vị hơi ngọt,
cay, đắng, rễ hơi chua, tánh ấm. Chuyên sanh bổ huyết Tim, giúp đỡ sự hư
tổn để trục uất sanh tân. Nên người huyết thiếu, tả Thốn tả Quan thiếu rất
cần.
Trục Nhơn: Là một vị thuốc mới phát minh, tức là hột bưởi, có vị đắng,
có tánh hượt đàm, hạ khí. Khi sao chín tánh hơi ấm. Nếu đi chung với Trần
Bì, Bán Hạ, Bạch Giới Tử, Bạch Thược, trở thành một tập đoàn tiêu đàm,
giáng khí, khai uất, trị bướu cổ bên phải rất hay. Mạch đối tượng của nó
thuộc hữu Thốn nghịch.
Ngũ Linh Chỉ: Là cứt loài cầm xứ lạnh, tựa loài dơi, mùi rất hăng tanh,
tính ấm, chuyên phá huyết, khai thông ở Tử Cung, mà mạch ứng hữu Xích
thiệt. Nếu sao chín thì tánh đằm không mạnh quá.
Bạc Hà: Là Menthe, là một thứ cỏ thơm, dùng lá để thông khí thượng
tiêu, mở đường cho thuốc khai uất. Nếu dùng riêng mình nó thì thấy mát,
dùng chung với tập đoàn thì tùy duyên biến hóa. Nếu mạch tả Thốn có phù
uất thì rất cần.
Ổi Cương: Là gừng nướng, vị ngọt cay ấm, dùng để giữ khí ấm cho trung
châu Tỳ Vị, để tập đoàn thuốc có nền tảng xuất phát. Nếu hữu Quan kém
sức càng cần hơn.
Kết lại, nhìn chung toàn phương thấy giống như nguyên tắc Lục quân giải
biểu, vừa trị đàm, vừa trị cảm mà khí nghịch. Nhưng còn lại Đơn Bì, Hương
Phụ, Uất Kim, Bạch Giới Tử, Bạch Thược, Đương Quy, Trục Nhân, Ngũ
Linh Chỉ, Bạc Hà, Ổi Cương nên biến thành thế Tiêu Dao, cốt sao cho bớt
mạch hữu Thốn, hữu Quan, hữu Xích, bồi bổ thêm huyết cho Tim, Gan, khai
uất thông kinh, cho nên bướu cổ nhỏ dần, bướu Tử Cung tan dần. Nhờ sức
thuốc giúp cho người bệnh mỗi khi va chạm bị phản ứng nhẹ và dễ lưu
thông.