Nhơn Sâm: Đây chỉ dùng giống Nhơn Sâm ở Việt Nam có nhiều chất tư
âm, vị ngọt lạt, chuyên bồi dưỡng, tư nhuận cho sự khô khan nóng thiếu ở
Tim, nên mạch tả Thốn phù, hư, sác, sắc là đối tượng của nó.
Ngưu Bàng Tử: Còn có tên là Đại Lực Tử, là một thứ hột chuyên giải
nhiệt dẫn đi xuống và nhuận uất ở Phổi, nên mạch hữu Thốn phù sác, hưỡn,
đại, trong bệnh thời nhiệt là đối mạch đối chứng của nó.
Trùng Thoái: Là vỏ xác con ve sầu, tánh rất hòa bình, chuyên giải thấp
nhiệt của bệnh thời nhiệt uất kết ở Phổi, cho giải đẩy hết ra da rất hay.
Liên Kiều: Còn có tên là Liên Kiều Xác, vì trái nó như quả tim nhỏ, nhẹ,
xốp, khi khô tách làm đôi, hột bay mất còn lại vỏ. Tánh rất mát, vị hơi đắng.
Chuyên giải nhiệt độc, nhất là bệnh thời nhiệt xâm nhập vào phần Bọc Tim.
Cho nên trong bệnh thời nhiệt, mạch tả Thốn phù, hư, sác và ít đi tiểu là
mạch chứng đối tượng của nó.
Kim Ngân Hoa: Là một thứ bông của loại thảo chịu đựng mùa Đông, tươi
có màu xanh, khô biến màu vàng. Tánh rất mát và thông tiểu. Chuyên thanh
phần khí trong huyết để trị các chứng Ôn, Thấp Ôn, Kiết nhiệt, làm cho hệ
thống Thiếu Dương Khuyết Âm bị trở ngại. Còn là thuốc trị ung nhọt rất
hay. Nếu bệnh thời nhiệt, bệnh ung nhọt ít đi tiểu, phát nóng, mạch tả Quan,
tả Thốn phù sác, người ta thường dùng nó với Liên Kiều.
Cam Thảo: Dùng sống chỉ là một vị thuốc tả hỏa, giải nhiệt, nhất là hữu
Thốn mạch phù sác rất cần.
Kiết Cánh: Một thứ củ màu trắng, vị đắng, tánh đi lên. Có khả năng kết
hợp các vị thuốc đưa tận lên phần đầu, để khai thông giải nhiệt, và còn chữa
được chứng ho rát cổ họng, sưng đau. Nếu dùng riêng một mình nó, hay nó
làm chủ với độ lượng cao thì mạch hữu Thốn phải chìm mới dùng được.
Còn tá thì chỉ dùng ít thôi.
Hồng Hoa: Là một thứ bông chuyên thanh nhuận táo và hượt huyết. Ở các
mao tế quản trên vùng Phổi, lồng ngực và mặt da, trên đầu. Nếu mạch tả
Thốn sắc, nghịch, uất, đều phải cần nó để giải dẫn đem xuống.