Bộ tư lệnh chiến dịch chúng tôi nhận định: trên thế chung chúng ta vẫn
giữ được quyền chủ động. Qua tin tức của đài Tiếng nói Việt Nam, từ Bộ
chỉ huy Miền thông báo xuống; tại hướng chiến lược chủ yếu Quảng Trị, đã
hút thêm lữ đoàn dù 1 và liên đoàn biệt kích 81 từ đường 13 đưa ra; địch
cũng rút bớt quân ở Tây Nguyên và đồng bằng Khu 5 đi chi viện các nơi
khác vì tại đây ta vẫn tiếp tục tiến công uy hiếp. Trên mặt trận đường 13,
địch phải rút sư đoàn 21 về đồng bằng sông Cửu Long để đối phó với sư
đoàn 5 của ta đang cùng quân dân Khu 8 mở chiến dịch tổng hợp đạt hiệu
quả. Sư đoàn 18 và liên đoàn biệt động quân 5 vẫn bị giam chân ở thị xã An
Lộc, thay sư đoàn 5 rút về phía sau củng cố, chưa thể tiếp tục đưa ra phía
trước được. Trên mặt trận đường 13 vẫn chỉ có sư đoàn 25 và một số đơn vị
tăng cường khác, đã bị sứt mẻ và sa sút tinh thần qua gần một tháng thay sư
đoàn 21 tiến công trận địa chốt Tàu Ô.
Về phía ta, Sư đoàn 7 đã chứng tỏ là một sư đoàn có bản lĩnh trong
nhiệm vụ chống địch giải tỏa, làm thất bại nhiều thủ đoạn nham hiểm của
địch trong cuộc tiến công nhằm đánh bật ta ra khỏi trận địa chốt; chúng vẫn
dậm chân tại chỗ trước hệ thống chốt chặn Tàu Ô của ta.
Từ nhận định trên và quán triệt sự chỉ đạo của Bộ chỉ huy Miền, Bộ tư
lệnh chiến dịch chủ trương: kiên trì giữ các chốt cơ bản kết hợp với tổ chức
các chốt cơ động đưa lực lượng ra phản kích.
Bắt đầu triển khai thực hiện chủ trương chuyển hoạt động vào khu trung
tuyến, là thiết thực chi viện cho trận địa chốt chặn Tàu Ô, đồng thời hạn chế
khả năng địch đưa lực lượng đánh ra vùng giải phóng.
Đây là nhiệm vụ đã được đề cập trong nội dung quyết tâm chiến đấu đợt
hai chiến dịch. Trong bố trí lực lượng chống giải tỏa trên đường 13, chúng
tôi chỉ đạo Sư đoàn 7 chỉ để Trung đoàn 209 chốt chặn Tàu Ô, Trung đoàn
165, 141 và 205 làm nhiệm vụ cơ động tiến công, thời gian đầu đánh địch
vu hồi phía sau khu vực Tân Khai, Đức Vinh, sau vận động tiến công khu