đầu, khóa đuôi. Tình hình nguy ngập, địch đông, chủ động, ta ít lại bị động.
Tôi hạ lệnh chia thành hai tổ, tìm cách thoát vây. Tổ tôi có trưởng phòng
trinh sát quân đoàn, đồng chí tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 271)
lực lượng chủ công đánh chiếm chi khu quân sự Bù Đăng, đồng chí Khởi y
sĩ và một chiến sĩ, tất cả năm người, có ba súng ngắn, không mang theo
AK. Trên đường vận động vượt trở lại bờ bắc sông, thấy Khởi bò, đầu sát
đất, mông nhô cao, tôi nói nhỏ: “Mông thấp nhưng đầu phải cao để quan sát
địch. Địch bắn, ta bắn trả lại.” Địch chỉ còn cách ta năm trăm mét, tôi phân
công: Phẩm, đồng chí tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 và chiến sĩ cần vụ bắn
yểm trợ, tôi và Khởi vượt sông, sang đó chúng tôi bắn yểm trợ để các đồng
chí sang sông tiếp. Hai chúng tôi vượt sông nước chảy xiết, tôi níu lấy bụi
tre, lên được bờ. Khởi trôi xa tới một ki-lô-mét, tôi phải đuổi theo kéo Khởi
lên bờ. Đến nơi chúng tôi vừa bắn vừa hô xung phong nhằm nghi binh, uy
hiếp tinh thần địch, chúng tưởng lực lượng ta nhiều mà bỏ cuộc.
Hôm sau bước trinh sát thực địa vẫn được tiếp tục và đạt kết quả tốt vì
kế hoạch tiến hành được thay đổi toàn bộ cả giờ xuất phát, đường đi và địa
điểm tiến hành. Qua trinh sát, tôi quyết định điều chỉnh một số điểm trong
quyết tâm, tuy nhỏ nhưng rất quan trọng: đánh chi khu vòng theo hướng
nam lên, chỉ dùng pháo chế áp khi tiến công khu trại biệt kích.
Ngày 6/12/1974, một ngày làm việc căng thẳng và hào hứng suốt từ
sáng đến tối khuya.
Tại một địa điểm bắc sông Đắc Lập, cách chi khu quân sự Bù Đăng
khoảng sáu ki-lô-mét có mặt đầy đủ các đồng chí chỉ huy các đơn vị làm
nhiệm vụ chiến đấu; có các đồng chí Nguyễn Đình Kính, thường vụ tỉnh ủy
Bình Phước, Phan Bình Minh, huyện ủy Bù Đăng; Năm Tròn, Ba Lẹ, huyện
đội Phước Long.
Tất cả đã trải qua vất vả hành quân, vận động nhân dân đưa đường, vận
chuyển súng đạn, tiếp tế lương thực, tiếp cận vào các mục tiêu để quan sát,
đo đạc cho pháo, tìm đường cho bộ binh tiến công, đếm từng hàng rào kẽm