gai, bãi mìn để tính lượng bộc phá cần có. Tiêu biểu cho những người có
mặt trong buổi họp này là anh Phan Bình Minh. Ngày 4/12/1974, anh nhận
chỉ thị của Thường vụ huyện ủy Bù Đăng giao nhiệm vụ đưa trung đội bộ
đội địa phương của huyện vượt đường 14 sang tham gia chiến đấu và báo
kế hoạch nổi dậy của huyện phối hợp với mũi tiến công quân sự. Đường đi
cực kỳ gian khổ và nguy hiểm. Ngày đầu tưởng đã chót lọt nào ngờ anh
Tạc, quê Hải Hưng, trung đội trưởng trinh sát bộ đội chủ lực đi cùng đạp
phải mìn lá. Mìn nổ, anh hy sinh. Giữa lúc ấy pháo địch cấp tập và cho quân
bổ vây nơi vừa xảy ra tiếng mìn nổ. Chúng đoán có “Việt cộng” vượt
đường. Nhưng tất cả đã thoát khỏi vòng nguy hiểm. Anh Minh lại dẫn đoàn
tiếp tục hành quân. Không có con đường nào khác, đoàn quân phải đi vòng,
cách chốt Bù Lô khoảng mười mét đành phải dừng lại. Đợi trăng vừa khuất,
anh lệnh cho đoàn vượt qua, rồi đi gấp đến sở chỉ huy tiền phương chiến
dịch lúc mờ sáng, để kịp ngày họp như đã quy định.
Trước khi đi vào các vấn đề cụ thể, tôi quán triệt thêm tư tưởng chỉ đạo
của Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền, đồng thời trao đổi những suy nghĩ riêng
của mình về trận đánh đang tới gần.
Trong mùa khô 1974 - 1975, trên chiến trường B2 chúng ta chủ trương
mở chiến dịch Đường 14 - Phước Long là chọn vào một địa bàn có vị trí
chiến lược quan trọng nhưng lực lượng địch ở đây lại yếu và có những sơ
hở rất khó khắc phục. Đây là một thuận lợi rất cơ bản đảm bảo chắc thắng.
Và khi chiến dịch thắng lợi, nó sẽ góp phần đáng kể làm chuyển biến cục
diện có lợi cho ta ở Đông Nam Bộ nói riêng và toàn B2 nói chung. Đây là
một quyết định có sự tính toán nhìn xa. Bù Đăng cách Đức Lập năm mươi
ki-lô-mét, ở đó đường Trường Sơn phía đông đang được mở thông, xuôi về
hướng Bù Gia Mập - Lộc Ninh.
Nếu ta tiến công giải phóng Bù Đăng thì từ Bù Bông - Kiến Đức có thể
rẽ nhánh xuôi theo hướng nam tạo thành một hành lang xuống Tân Uyên,
chiến khu Đ, bắc Biên Hòa, trong đó Bù Đăng trở thành một căn cứ tập kết