dân vệ có cơ sở binh vận của ta, hoạt động theo phương thức bắn chỉ thiên
khi đi càn, gặp Quân giải phóng không bắn, đụng độ thì bỏ chạy, viện cớ
“Việt cộng” mạnh. Đã có một trung đội trưởng ác ôn được vợ (cơ sở của ta)
tuyên truyền giác ngộ, vận động dẫn chồng mang theo mười lăm súng ra
đầu hàng cách mạng, được ta khoan hồng.
Tôi thực sự xúc động khi nghe anh Minh báo cáo về những con số thật
quý giá, nó thực sự là những hạt giống cách mạng đã nảy mầm; nó như một
dòng suối nhỏ hòa thành dòng sông thắng lợi đang ào ào nhấn chìm những
cặn bã, những rác rưởi bẩn thỉu, phản động. Thật đáng quý biết bao, ở một
vùng sâu chưa được biết ánh sáng cách mạng, chưa được nhìn thấy cụ thể
độc lập tự do là gì. Sự suy nghĩ của đồng bào thật đơn giản, chỉ tin, chỉ nghe
điều gì nhìn thấy. Vậy mà đồng bào đã ngả theo cách mạng, ngả theo kháng
chiến, đã nuôi giấu cán bộ, chắt chiu từng hạt gạo, củ khoai để tiếp tế cho
cán bộ.
Nhân lúc anh Minh cầm bát nước, tôi hỏi xen vào:
- Anh Minh quê ở Bù Đăng? (Vì anh nói tiếng Kinh đích thị là người
Kinh rồi.)
- Báo cáo anh, tôi không phải. - Anh Minh thanh minh.
- Anh quê vùng Bến Cát, Thuận An? - Tôi lại hỏi (vì nghe anh nói giọng
Nam Bộ nhưng không hoàn toàn Nam Bộ).
Anh Minh cười, kể:
- Tôi quê Quảng Nam. Năm 1954 tập kết ra Bắc tuổi còn rất trẻ, được
phân về công tác tại Đoàn thanh niên xung phong Trung ương, tham gia
phục hồi đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, Hà Nội - Nam Định, tham gia
tiễu phỉ Vàng Pao (Lào) nổi loạn quấy vùng Quỳ Châu (Nghệ An) giáp biên
giới Việt - Lào. Đầu năm 1962 tôi được lệnh vào Nam chiến đấu. Đoàn
chúng tôi có anh Vũ Đình Tuyến, quê Quảng Ngãi, hiện là bí thư huyện ủy