(1) Nghị quyết Bộ Chính trị 25/3/1975.
Ý thức như thế, Bộ tư lệnh và Đảng ủy Quân đoàn họp quyết định:
- Hướng bắc, tây bắc do tôi phụ trách, lực lượng đảm nhiệm gồm có Sư
đoàn 9, Trung đoàn 16, một tiểu đoàn tăng, hai tiểu đoàn pháo cao xạ, đánh
chiếm chi khu quân sự Dầu Tiếng, tạo bàn đạp tiến công Sài Gòn từ hướng
tây, tây bắc, đồng thời mở rộng vùng giải phóng về phía tây sông Sài Gòn
từ Bến Củi đến đường 26, hỗ trợ và phối hợp với Sư đoàn 5 đang hoạt động
ở hướng Bến Cầu, Đức Huệ.
- Hướng đông bắc do Phó tư lệnh Bùi Cát Vũ (có sở chỉ huy nhẹ đi cùng
giúp việc), lực lượng đảm nhiệm là Sư đoàn 7, một bộ phận Sư đoàn 341(2)
phối hợp với lực lượng vũ trang Quân khu 7, Quân khu 6 đánh chiếm chi
khu quân sự Định Quán, giải phóng đường 20, tỉnh Lâm Đồng, mở hành
lang và bàn đạp tiến công trên hướng bắc, đông bắc Sài Gòn.
(2) Sư đoàn chủ lực thuộc Bộ Tổng tư lệnh, được bổ sung vào chiến
trường miền Đông Nam Bộ tháng 3/1975.
Sự phân công nhiệm vụ thật hợp lý. Anh Ba Vũ lên đường mang theo
cái háo hức, bồi hồi, sự da diết từ bên trong. Sau hai mươi bảy năm anh lại
trở về chiến trường cũ với bao kỷ niệm, sâu đậm nhất là trận La Ngà đại
thắng mà anh đã góp phần.
Tuy cùng trong Bộ tư lệnh kể từ ngày thành lập Quân đoàn (20/7/1974)
nhưng chúng tôi cứ như vợ chồng Ngâu, chỉ gặp nhau khi trận chiến đấu kết
thúc và lại xa nhau khi nhiệm vụ mới được giao. Lúc anh lên Bù Đăng, tôi
ở lại Đồng Xoài khi tôi ngược Bù Đăng lo trận đánh mở đầu, anh về Phước
Vĩnh lo việc vây lỏng Đồng Xoài, tổ chức và chỉ huy thế trận nghi binh đã
được Bộ tư lệnh Quân đoàn thống nhất. Trong trận tiến công thị xã Phước
Long anh ở một hướng, tôi một hướng, mọi xử trí tình huống đều qua hệ
thống thông tin, thế mà vẫn hiểu nhau, cùng nhau cộng tác trên tình đồng