cung cấp củi người Ấn.” Nói rồi Esa đưa mắt qua hướng khác, vẻ gượng
gạo có lỗi - dân bản xứ ít động lòng trắc ẩn trước các con vật; có lẽ ông
thấy câu tôi nói về đàn bò của người Ấn phóng đại, thiếu thuyết phục. Giờ
đây việc tự động nhớ lại và ứng câu đó vào bản thân, với ông thật là điều
khó lí giải.
Thời chiến tranh có một điều rất đỗi khó chịu là mọi thư từ, tôi viết gửi hay
nhận được, đều bị một nhân viên kiểm duyệt nhỏ bé, uể oải, người Thụy
Điển tại Nairobi bóc xem. Tuy chẳng thể tìm ra chút gì khả nghi trong đó,
nhưng tôi tin, bởi sống một cuộc đời đơn điệu, y dần dà vui thú với việc
dòm dỏ thư tôi đề cập đến những ai, và ưa đọc thư của tôi như dõi theo
truyện dài kì đăng trên tạp chí vậy. Dạo ấy, tôi thường thêm vào thư mấy lời
đe nẹt khi qua thời chiến sẽ có hành động đáp trả, cho tay kiểm duyệt kia
đọc. Tới lúc chiến tranh kết thúc, gã hoặc còn nhớ lời đe dọa hoặc tự tỉnh
ngộ ăn năn, nên đã cử một liên lạc viên mang tin đình chiến lên cho đồn
điền. Liên lạc viên tới khi tôi ở nhà một mình và sau khi nghe được tin tôi
bèn bước vào rừng, ở đó vô cùng im lìm, và thật lạ lẫm khi nghĩ hiện giờ
các mặt trận ở Pháp hay vùng Flanders cũng yên ắng như nơi đây - hết thảy
súng ống đều câm nín. Trong cái tĩnh lặng này, châu Âu và châu Phi như
liền kề, tựa hồ bạn có thể bước theo lối mòn trong rừng để tới tận cứ điểm
Vimy. Lúc quay về tôi nom thấy một dáng hình đứng bên ngoài nhà mình.
Đấy là Esa, tay nải trên tay. Ông liền thông báo việc mình quay về, có
mang cho tôi một món quà.
Quà là một bức vẽ, đặt trong khung kính, hình một cái cây vẽ bằng bút mực
cực kì tỉ mỉ công phu, cả trăm chiếc lá nhất loạt được tô màu xanh thắm.
Trên mỗi lá có ghi một từ chữ Ả Rập li ti mực đỏ. Tôi cho rằng các từ này
đều trích từ kinh Koran, nhưng Esa không có khả năng giảng giải nghĩa của
chúng, ông cứ lấy ống tay áo lau đi lau lại mặt kính và cam đoan đây là
món quà rất quý. Esa kể, trong năm bi cực vừa qua, ông đã nhờ một cụ tu sĩ
đạo Hồi tại Nairobi vẽ bức tranh và hẳn vị tu sĩ đã bỏ ra vô khối thời gian
cho tác phẩm này.