Khieu Thirith (Campuchia): Vợ Ieng Sary, từng giữ chức Bộ trưởng Xã Hội
Khmer Đỏ.
Kim Tuấn: Tư lệnh sư đoàn 320 năm 1975, sau đó thăng tư lệnh quân đoàn
3. Bị bắn chết tại chiến trường Campuchia.
Koy Thoàn (Campuchia): Bí thư khu uỷ khu Bắc của Khmer Đỏ, bị thanh
trừng đầu năm 1976.
La Quý Ba (TQ): Cố vấn chính trị của Trung hoa cho Việt nam từ 1950 đến
1954. Sau 1954 làm đại sứ tại Hà nội. Cố vấn cho Việt nam phát động Cải
cách ruộng đất.
Lâm Bưu (TQ): Thống chế Hồng quân. Từng tham chiến ở Mãn Châu,
Triều tiên. Được coi như người kế vị Mao Trạch Đông trong những năm
của cuộc Cách mạng Văn Hoá. Tử nạn máy bay khi muốn trốn sang Liên
xô sau khi đảo chánh thất bại năm 1969.
Lê Đức Anh: Bí danh Sáu Nam, từng phụ tá cho Trần Văn Trà. Đầu năm
1975, được cử tư lệnh đoàn 232 tiến đánh Sài gòn từ hướng nam. Sau ngày
30-4-1975, được cử tư lệnh quân khu IX. Gặp nhiều may mắn và gặp thời.
Năm 1977, làm tư lệnh quân khu VII, rồi tư lệnh chiến dịch xâm lăng
Campuchia. Thăng Tổng tham mưu trưởng năm 1986, rồi Bộ trưởng quốc
phòng và cuối cùng Chủ tịch nhà nước.
Lê Quảng Ba: Gốc người Tày, tư lệnh đầu tiên của sư đoàn 316 (còn gọi là
sư đoàn Thổ) trong những năm trận chiến Đông dương I. Bị khai trừ cùng
lúc với Chu Văn Tấn.
Lê Ngọc Bi: Tư lệnh mặt trận tỉnh lộ 13 Tây Ninh năm 1978, có lẽ lúc đó
kiêm nhiệm tư lệnh sư đoàn 2.
Lê Duẩn. Gia nhập phong trào cộng sản rất sớm. Từng giữ những chức vụ
quan trọng như bí thư xứ uỷ Trung Kỳ rồi Nam Kỳ. Sau khi Trường Chinh
bị mất chức, được cử làm Bí thư thứ nhất (1957), rồi Tổng bí thư (1976).
Lê Quang Hoà: Tư lệnh quân khu IV năm 1979.
Lê Thiết Hùng: Tốt nghiệp Hoàng Phố, tư lệnh Liên Khu Tư năm 1946.
Chỉ huy trưởng trường Lục quân từ 1947 tới 1954. Cùng các cố vấn Trung
quốc phát động Rèn cán chỉnh quân để thanh lọc hàng ngũ sĩ quan.
Lê Linh: Thiếu tướng Cộng quân Việt nam, chính uỷ quân đoàn 2 từ 1974.