sau đang từ từ bay qua, đếm thử xem có bao nhiêu chiếc và nhìn theo
mãi cho đến khi chúng như thấp dần xuống rồi khuất hẳn sau chân trời.
Những cỗ súng cối hạng nặng mới đưa từ tàu thủy lên, lá chắn và nòng
sơn loang lổ, lăn bánh diễu qua ngọn gò; thắng vào xe pháo là những
con ngựa thấp lùn, bờm dài, lông xù, mỗi con một màu lông, đang cất
vó phi một nước đại nặng nề; những người đánh xe kéo pháo, râu ria
xồm xoàm, luôn tay quất roi vào ngựa cho chúng phi hăng hơn nữa.
Đám bụi do vó ngựa tung lên chưa kịp lắng xuống thì những chiếc xe
lăng khổng lồ bọc những tấm thép dày tán ri-vê đã kéo qua, bánh xe
chuyển xích phía trước nghển cao lên. Quan tư lệnh đếm được mười
con quái vật bằng thép sẵn sàng nghiến nát bọn đỏ trên các đường phố
Txaritxyn. Ông cho ngựa chạy nước kiệu xuống gò và phi dọc theo bờ
sông, theo sau là tên lính cầm cờ phi cách ông một thân ngựa, lá cờ
màu xanh xám thẫm bay phất phới trên đầu ông.
Luôn luôn có thêm những đơn vị mới đến kéo xuống thuyền. Mấy
chiếc phà chở xe lương thảo và đồ quân dụng liên tiếp qua sông. Bên
cạnh các bến phà có những chiếc xe giàn, xe britska, những chiếc xe tải
lớn thường dùng để chở lúa mới gặt từ ngoài đồng về. Quanh đấy, mấy
người cô-dắc có tuổi bệ vệ đang điềm tĩnh chờ đến lượt mình qua sông,
người thì đi đi lại lại, cũng có người ngồi bên đống lửa giở thức ăn
nguội ra ăn. Đó là những người cô-dắc lái buôn do các thôn cô-dắc phái
tới các đơn vị của họ: các đội bách cơ và các binh đoàn. Họ lo việc
quản trị, thu chiến lợi phẩm - dù là tiền bạc, gia súc, lúa mì, lương thảo
hay đồ gia dụng: áo quần, chăn màn, gối đệm, gương soi, vũ khí; họ
đem các thứ này đổi lấy lương thảo và thức ăn cung cấp cho các đơn vị
của họ, khi cần, họ cũng cung cấp cả áo quần và vũ khí nữa; còn tất cả
các thứ còn lại thì họ xếp lên xe giao cho thiếu niên hay phụ nữ đưa về
làng.
Mamôntôv cưỡi ngựa đi qua xóm Tytskôv, trong đó một nửa số nhà
đã bị đốt và các vựa thóc đều bị tro tàn bám vào đen sì, rồi đi men theo
con đường sắt đợi đoàn tàu bọc thép từ hữu ngạn sông Đôn đến.