Lúc tôi đến chỗ hẹn thì vẫn còn sớm, dù bị ngăn trở bởi món cá bơn rán
và ông thợ mài dao kia, nhưng tôi thấy cô Bellingham đã chờ sẵn trong
vườn, ngắt hoa bỏ vào một cái bát, sẵn sàng lên đường.
“Hệt như hồi trước nhỉ?” Cô nói khi chúng tôi rẽ vào đường Fetter, “Lúc
chúng ta cùng tới Viện bảo tàng ấy. Nó khiến tôi nhớ lại những tấm bảng
Tell-Amarna, sự tử tế và nghĩa cử rộng lượng của anh. chiều nay chúng ta
sẽ đi bộ thì thân mật hơn.”
“Phải rồi, và những tiếng ồn ào ngoài phố giúp ta biết trân trọng sự yên
tĩnh trong Viện bảo tàng. Chúng ta sẽ xem gì khi đến đó?”
“Cô phải quyết định thôi.” Tôi trả lời, “Cô biết rõ những bộ sưu tập trong
đó hơn tôi nhiều.”
“Chà chà, vậy thì…” Cô trầm ngâm, “Tôi tự hỏi liệu anh sẽ thích xem
thứ gì, hay nói cách khác là tôi muốn cho anh xem gì. Các mẫu vật gốm cổ
của Anh đều rất thú vị, đặc biệt là đồ gốm Fullham. Tôi định sẽ dẫn anh tới
xem chúng.”
Cô suy nghĩ một hồi, và khi tới cổng Staple Inn, cô dừng lại, tư lự nhìn
dọc theo đường Gray’s Inn.
“Anh tỏ ra quan tâm đặc biệt tới ‘vụ việc’ của chúng tôi - theo như Tiến
sĩ Thorndyke thường gọi. Anh có muốn xem nghĩa trang nơi bác John
muốn mình được chôn cất không? Nó không nằm trên đường tới Viện bảo
tàng, nhưng chúng ta cũng đâu có vội gì phải không nào?”
Dĩ nhiên tôi chẳng vội. Bất cứ việc gì kéo dài cuộc dạo chơi đều được tôi
hưởng ứng nhiệt liệt, còn về địa điểm, thực ra thì chỗ nào chẳng được, miễn
là có cô ở bên. Ngoài ra, nghĩa trang đó thực ra cũng có phần đáng lưu tâm,
vì chính là “lí do thú vị” trong điều khoản số hai rối rắm của bản di chúc.
Sau khi tôi tỏ ý muốn được tới đó, hai chúng tôi băng quan đường tới lối
vào đường Gray’s Inn.