Về mặt lịch sử, các chương trình tiết kiệm trước đây của các công
ty ở Mỹ không có một lựa chọn mặc định nào. Người tham gia chỉ
được trao cho một danh mục các phương án và hướng dẫn phân bổ
tiền bạc tùy ý vào các quỹ đã được liệt kê. Nhưng đến khi phương
pháp đăng ký tham gia tự động xuất hiện, các mặc định cũng xuất
hiện theo. Người ta được trao cho những tỉ lệ phân bổ cho trước theo
từng chương trình tiết kiệm. Theo truyền thống, các công ty chọn
phương án đầu tư có tính bảo toàn vốn cao nhất làm mặc định,
thường là một tài khoản trên thị trường tiền tệ.
Hầu hết các chuyên gia cho rằng việc phân bổ 100% vốn đầu
tư vào tài khoản thị trường tiền tệ là quá bảo thủ. Sự kết hợp giữa
mức lợi nhuận thấp của các quỹ này (thường cao hơn mức lạm phát
một chút) và mức lãi suất tiết kiệm thấp trong các tài khoản tiết
kiệm của nhân viên chỉ đơn giản là một công thức làm cho họ nghèo
đi khi đến tuổi hưu. Các công ty chọn phương án này không phải vì
họ cho rằng đó là phương án thông minh, mà vì họ sợ bị kiện nếu
thiết kế một lựa chọn định sẵn có mức lợi nhuận cao hơn, nhưng độ
rủi ro lớn hơn. Sự e ngại của họ khi đó còn lớn hơn khi Bộ Lao động
Hoa Kỳ chần chừ không ban hành quy định về vấn đề này. Chỉ
đến khi những hướng dẫn được đưa ra thì sự trở ngại trong việc lựa
chọn một quỹ đầu tư mặc định mới được thông suốt.
Thiết kế những lựa chọn phức tạp
Chương trình tiết kiệm hưu bổng 401(k) ở Mỹ là một ví dụ hoàn
hảo về quy trình ra quyết định đầu tư phù hợp với nhu cầu của
người tham gia ở các mức độ và lợi ích khác nhau. Chẳng hạn, những
người mới tham gia chương trình được khuyên rằng nếu không
muốn lập danh mục đầu tư riêng, họ có thể chọn một phương án
đầu tư định sẵn, với sự trợ giúp của các chuyên gia. Đối với những
người muốn tự mình quản lý một danh mục thực sự, họ được đề
nghị một nhóm quỹ tương hỗ, vốn cho phép các nhà đầu tư khôn