Những năm 90, người ta đổ xô đi rút tiền hưu đầu tư vào chứng
khoán. Cú hích nào đã thúc đẩy họ làm điều đó? Có lẽ do họ đã có
hàng chục năm nghiên cứu các tạp chí kinh tế hay đầu tư tài chính
và đúc kết được bài học rằng trong suốt thế kỷ qua, lợi nhuận từ
cổ phiếu cao hơn nhiều so với trái phiếu, hay đại loại như thế.
Cho nên họ quyết định chuyển hướng đầu tư vào cổ phiếu. Lý do
thứ hai (và lý do này thuyết phục hơn) là họ tin rằng cổ phiếu chỉ
tăng giá chứ không giảm, hoặc giả có giảm giá đi nữa thì chúng cũng
sẽ lên lại nhanh thôi. Vì thế, không có lý do gì họ phải chần chừ.
Một cách để phân tích khả năng chọn đúng “điểm rơi” của nhà
đầu tư là xem các quyết định phân bổ vốn trong danh mục đầu tư
của họ thay đổi như thế nào theo thời gian. Vào năm 1992, tại một
công ty lớn, có một nhóm nhân viên tham gia vào một quỹ tương hỗ
của Vanguard với tỉ lệ phân bổ vốn là 58%. Đến năm 2000, họ nâng
tỉ lệ này lên 74%. Tuy nhiên, hai năm sau, tỉ lệ đó quay về 54%. Thị
trường ảm đạm, nhưng trước đó họ đã mua vào cổ phiếu với giá cao,
và nay lại bán ra với giá thấp!
Trở lại Quy tắc ngón tay cái
Ngay một nhà đầu tư khôn ngoan nhất đôi khi cũng cảm thấy
chán nản khi phải quyết định đầu tư tiền bạc như thế nào cho
tốt nhất, và họ thường quay về với quy tắc chung: quy tắc Ngón
tay cái. Lấy ví dụ của nhà kinh tế học đoạt giải Nobel, Harry
Markowitz, một trong những người phát minh ra lý thuyết quản lý
danh mục đầu tư hiện đại. Khi được hỏi: “Ông phân bổ vốn đầu tư
của mình như thế nào?”, ông đáp: “Lẽ ra tôi phải tính hiệp phương
sai hồi quy cho từng lớp tài sản và rút ra giới hạn hiệu dụng. Thay
vào đó, tôi lại chia vốn của mình thành hai phần bằng nhau, rồi
đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu”.