họ và của Condorcet. Các công trình đúng đắn của ông về thống kê không
phải là mối quan tâm của chúng ta. Chính tác động chung của luận chứng
của ông, rằng những thứ như các phương pháp của khoa học tự nhiên có thể
ứng dụng tốt cho một số hiện tượng số đông nhất định của xã hội, và của
yêu cầu mà ông ngầm thể hiện và thậm chí là nói thẳng ra, rằng mọi vấn đề
của khoa học xã hội phải được xử lí theo một cách thức tương tự [như của
lĩnh vực khoa học tự nhiên], đã gây ra ảnh hưởng theo chiều hướng tương
tự những lời thuyết giảng của Comte. Không gì mê hoặc thế hệ kế tiếp bằng
khái niệm “con người trung bình” của Quetelet và kết luận nổi tiếng của
những nghiên cứu của ông về thống kê đạo đức rằng “chúng ta đi từ năm
này qua năm khác với viễn cảnh đáng buồn là phải chứng kiến những tội ác
giống nhau được lặp lại theo cùng trình tự và dẫn đến những hình phạt
giống nhau theo những tỷ lệ giống nhau. Tình cảnh đáng buồn của loài
người!... Chúng ta có thể tính trước bao nhiêu kẻ tay sẽ vấy máu đồng loại,
bao nhiêu kẻ sẽ làm giả mạo giấy tờ, bao nhiêu kẻ sẽ đầu độc người khác,
chúng ta hầu như có thể tính trước sẽ có bao nhiêu ca sinh và bao nhiêu ca
tử. Có một thứ ngân sách mà chúng ta vẫn trả với một mức độ đều đặn
đáng sợ: đó là ngân sách dành cho nhà tù, xiềng xích và án tử hình”
.
Các quan điểm của ông về việc ứng dụng các phương pháp toán học đã trở
nên đặc trưng cho phương pháp của các nhà thực chứng sau này hơn bất cứ
quan điểm nào xuất phát trực tiếp từ Comte: “Các môn khoa học càng trở
nên tiến bộ thì lại càng có khuynh hướng đi vào lãnh địa của toán học,
giống như sự hội tụ về cùng một tâm điểm. Chúng ta có thể đánh giá sự
hoàn thiện mà một bộ môn khoa học đạt được thông qua khả năng vận
dụng toán học, dù nhiều hay ít, của bộ môn đó”.
Cho dù Comte đã lên án quan điểm này và đặc biệt là mọi nỗ lực nhằm
tìm ra các quy luật xã hội bằng phương tiện thống kê, thì những nỗ lực
chung của ông và Quetelet nhằm tìm ra những quy luật tự nhiên về sự phát
triển của toàn thể nhân loại, nhằm mở rộng quan niệm của Laplace về quyết
định luận phổ quát (universal determinism) đối với các hiện tượng văn hóa,
và nhằm làm cho các hiện tượng số đông trở thành đối tượng duy nhất của