và tạo ra sức ảnh hưởng lớn hơn so với bộ Cours trực tiếp tạo ra. Đối với
tôi, nó dường như là một trong những tiểu luận có sức ảnh hưởng vào bậc
nhất của thế kỉ XIX; nó rõ ràng xuất sắc hơn hẳn những tập Cours buồn tẻ
được biết đến rộng rãi ngày nay. Nhưng thậm chí bộ Cours, tác phẩm
không khác gì hơn là sự phức tạp hóa các ý tưởng được thu gọn trong bài
tiểu luận nhỏ đó, đã được chuẩn bị ngay từ năm 1826 và được truyền đến
cho những độc giả xuất chúng dưới dạng một loạt các bài giảng vào
1828
. Vì vậy, so với các tác phẩm chính của Hegel liên quan đến chủ
đề quan tâm ở đây, các ý tưởng chính của Comte được xuất bản trong cùng
năm với Philosophy of Law [Triết học pháp quyền], trong vòng cùng vài
năm với Encyklopaedie [Bách khoa toàn thư], và tất nhiên là trước
Philosophy of History [Triết học lịch sử] vốn được xuất bản sau khi Hegel
mất. Nói cách khác, mặc dù Comte thuộc lớp trẻ sau Hegel 28 năm, chúng
ta vẫn cần coi họ như là những người cùng thời kì, và vì vậy hoàn toàn có
đủ cơ sở khi cho rằng có thể Hegel chịu ảnh hưởng từ Comte ở mức độ
tương đương Comte chịu ảnh hưởng từ Hegel.
Dù cho hiện tại bạn có thể đánh giá tầm quan trọng của Hegel cao hơn,
thậm chí trên nhiều phương diện coi ông là người xuất sắc nhất, thì mức độ
giống nhau giữa họ cũng đã được thừa nhận. Vào năm 1824, học trò trẻ tuổi
của Comte là Gustave d’Eichthal đến Đức học. Trong các bức thư gửi
Comte, anh ta kể lại rất hào hứng những phát hiện của mình về Hegel
.
Liên quan tới các bài giảng của Hegel về triết học lịch sử, anh ta viết “có
một sự trùng hợp kì lạ giữa các kết quả nghiên cứu của thầy [với của
Hegel] mặc dù có sự khác biệt về các nguyên lí, ít nhất là ở vẻ bên ngoài”.
Anh ta tiếp tục viết tiếp rằng “sự đồng nhất giữa các kết quả nghiên cứu tồn
tại ngay cả đối với các nguyên lí thực tiễn, vì Hegel là người bảo vệ sự hiện
diện của các chính phủ, nghĩa là ông ta là kẻ thù của những người theo
trường phái tự do”. Một vài tuần sau, d’Eichthal báo lại rằng ông đã đưa
bản sao bài luận của Comte cho Hegel và Hegel đã bày tỏ sự thích thú và
khen ngợi phần đầu tiên mặc dù ông nghi ngờ ý nghĩa của phương pháp
quan sát được đề cập trong phần hai. Và sau đó không lâu, Comte thậm chí