quan tình báo đối phương hay cài cắm. Cuộc điều tra năm 1971 đã mang lại
những sự thật đáng phiền lòng, chủ yếu là từ máy phát hiện nói dối. Ví dụ,
một lái xe được cử đến làm việc tại sở chỉ huy của SOG. Anh ta đưa sếp
của SOG đi xung quanh Sài Gòn. Kết quả kiểm tra nói dối cho thấy người
lái xe này không trung thực. Nhưng anh ta vẫn tiếp tục lái xe cho sếp. Lang
tổ chức đưa người lái xe đi kiểm tra nói dối một lần nữa. Lần này kéo dài
trong ba ngày và kết quả còn xấu hơn trước. Điều sửng sốt nhất là tiểu sử
do anh ta khai có nhiều điểm khác với những gì đã khai với nhân viên điều
tra năm 1971. Người lái xe đó là một gián điệp của miền Bắc có nhiệm vụ
vừa lái xe và lắng nghe. SOG chuyển giao điệp viên đó cho Nam Việt Nam.
Một hồ sơ khác là của nhân viên quầy bar làm việc ở vị trí không bình
thường. Anh ta làm ở một toà nhà ở Sài Gòn dưới sự giám sát của SOG.
Được biết đến dưới cái tên "Nhà 10” House Ten - đây là nơi nghỉ ngơi, thư
giãn cho các toán biệt kích của SOG. Tương tự như người lái xe, nhiệm vụ
của nhân viên quầy bar là lắng nghe. Cũng ở nhà 10, tại quầy bar còn có hai
nhân viên nữ hấp dẫn khác. Kết quả kiểm tra bằng máy nói dối cả ba người
cho thấy họ đều nói dối(
). Rất dễ dàng hình dung ra các thông tin chiến
thuật hữu ích họ có thể nghe được khi các nhân viên thám báo chuyện trò
về những điệp vụ đã thực hiện. Ví dụ, các biện pháp xâm nhập mới, loại
thiết bị mới dùng để đánh lạc hướng các đơn vị chống thám báo Bắc Việt
Nam có thể được nói ra trong khi tán gẫu.
Trong khi tập trung vào đối tượng người miền Nam để tìm hiểu kế hoạch
hoạt động của OP35, tình báo miền Bắc không quên tìm kiếm thông tin
tương tự từ người Mỹ. Ít nhất trong một trường hợp, dường như họ đã dùng
biện pháp tình báo được biết đến với cái tên "bẫy tình". Cách thực hiện thủ
đoạn này khá đơn giản. Cơ quan tình báo đối phương cử một phụ nữ hoặc
nam giới hấp dẫn làm mồi nhử đối tượng. Một khi dính bẫy, mục tiêu bị xúi
giục hoạt động gián điệp.