tương lai, CIA phải “điều hành hoạt động với chính sách được xác định rõ
ràng, kế hoạch được vạch ra kỹ lưỡng và tham gia phối hợp đầy đủ với Bộ
Ngoại giao, Bộ Quốc phòng khi thích hợp... Theo quan điểm của chúng tôi,
các cơ quan đặc biệt có xu hướng nhận nhiệm vụ vượt quá năng lực của
chính mình và không xem xét đầy đủ khả năng các cơ quan khác của chính
phủ cùng thực hiện hoặc tham gia vào những hoạt động này”(
Hội đồng tham mưu trưởng liên quân không cần Kirpatrick nói cho họ
những gì đã biết. Họ bị đẩy vào tình thế khó khăn. CIA sử dụng nguồn lực
của Lầu Năm Góc, kể cả binh sĩ, nhưng không tham khảo ý kiến của họ về
chiến dịch Cu Ba.
Để ngăn ngừa việc tái diễn, các tham mưu trưởng muốn kiểm soát mọi sự
dính líu của quân đội vào hoạt động ngầm trong tương lai. Tuy nhiên, muốn
kiểm soát không đồng nghĩa với việc các tham mưu trưởng ủng hộ một
chương trình hoạt động ngầm mạnh mẽ. Họ phản đối ngay từ ý tưởng và
đánh giá thấp sự đóng góp của hoạt động ngầm. Điều này thể hiện rõ ràng
trong cách Lầu Năm Góc tiếp nhận sự bàn giao hoạt động ngầm chống miền
Bắc từ CIA.
Quyết định chuyển giao này khởi nguồn từ cuộc họp do tướng McNamara
chủ trì tháng 7-1962 tại trại Smith ở Hawai. Với sự tham gia của đại diện
Bộ Quốc phòng, Ngoại giao, Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, CIA và MACV,
mục đích của cuộc họp là triển khai việc chuyển giao các chương trình bán
quân sự mà CIA thực hiện ở Việt Nam sang Lầu Năm Góc. Dưới tác động
của sự kiện vịnh Con lợn và chỉ thị 57 của Hội đồng an ninh quốc gia, rõ
ràng là giới chức lãnh đạo dân sự muốn giao cho Bộ Quốc phòng vai trò lớn
hơn trong các cuộc hoạt động “đen”.
Lầu Năm Góc đã cố thoái thác nhiệm vụ này vào mùa thu 1962. Viện cớ
Nhà Trắng lại đang bận rộn với hoạt động ngầm, tân chủ tịch tham mưu
trưởng liên quân Maxwell Taylor đề nghị Uỷ ban 303 - cơ quan giám sát
mọi hoạt động ngầm của Hội đổng an ninh quốc gia - rằng “cần đẩy mạnh