câu chuyện. Sau đó, nhân chứng này trở cờ, công khai phủ nhận rằng mình
là nguồn tin cho những lời cáo buộc của CNN. Uy tín của CNN bị suy giảm
nghiêm trọng khi tính xác thực của hai trong số các nhân chứng khác bị lật
tẩy. Họ không hề tham gia vào điệp vụ đó.
Một nhân chứng chủ yếu khác của Oliver và Arnett là cựu Chủ tịch Hội
đồng tham mưu trưởng liên quân, đô đốc Thomas Moore. Tin tức cho biết:
ông đã “khẳng định có việc sử dụng Sarin trong hoạt động ở Lào và các
điệp vụ giải cứu phi công bị bắn rơi trong chiến tranh Việt Nam”(
1
). Tuy
nhiên không có đoạn băng quay cảnh Moore đang nói như vậy. Arnett và
Oliver giải thích rằng Moore “khẳng định có sử dụng Sarin nhưng không
muốn bị ghi lại”(
). Trong Newsweek và các báo chí khác, Moore kịch
liệt bác bỏ tin trên. Các nguồn tin khác của CNN, kể cả viên đại uý lục quân
chỉ huy cuộc tập kích, đều tố cáo bài phóng sự đã hiểu sai lệch lời nói của
họ. Trong quá trình chuẩn bị, CNN cho biết đã phỏng vấn tất cả 200 nguồn
tin. Sau chương trình phóng sự, một số người nói với phóng viên là họ chỉ
khẳng định có sử dụng hơi cay chứ không phải hơi ngạt.
Sự mổ xẻ của báo chí đối với phóng sự gần như là cuộc giải phẫu pháp y.
Sau đó, cuộc điều tra nội bộ của CNN do Floyd Abram, một luật sư được
giới truyền thông rất tôn trọng, thực hiện đã bồi thêm đòn cuối cùng. Abram
tuyên bố: “Luận điểm chính của phóng sự không đứng vững tại thời điểm
phát sóng cũng như hiện nay”(
Tuy nhiên, có một câu hỏi cần được nhấn mạnh nhưng đã bị bỏ qua trong
quá trình xem xét trên, mà câu trả lời chỉ càng làm đậm thêm tính không tin
cậy của toàn bộ phóng sự do CNN thực hiện. Liệu Nhà Trắng có chiều
hướng cho phép SOG tiến hành điệp vụ ngầm nguy hiểm và dễ gây bùng nổ
về chính trị như vậy không? Sự thật lịch sử chứa đựng trong các tài liệu giải
mật của SOG cho thấy Nhà Trắng không có xu hướng đó. Sự giám sát của
tổng thống đối với mọi hoạt động của SOG, bắt đầu từ 1964 và kéo dài
trong suốt tám năm tồn tại của SOG, không phải đặc trưng bởi sự sẵn sàng