chúng thường gặp phải sự phản kích bằng pháo đặt trên bờ và tàu nổi.
Trong khi việc phòng thủ bờ biển được cải thiện gây khó khăn cho điệp vụ
pháo kích, hoạt động tập kích của thám báo - biệt kích còn khó khăn hơn.
Con số tự nó nói lên tất cả "trong 34 vụ tập kích thực hiện trong năm 1966,
chỉ có 4 vụ được coi là thành công".(
Do những diễn biến này, OP37 giảm quy mô hoạt động trên biển. Điều này
tạo ra khó khăn trong việc duy trì các toán biệt kích người Việt. Việc cắt
giảm hoạt động "chống các mục tiêu ven biển miền Bắc tạo nên môi trường
huấn luyện không phù hợp với nhân viên các toán hành động".(
2
) Một nhân
viên biệt kích không cần phải thực hiện thành công một vụ tập kích mà vẫn
nhận được tiền thưởng. Thậm chí, anh ta còn không cần phải đặt chân lên
lãnh thổ miền Bắc. Tiền thưởng được phát khi họ rời Đà Nẵng hướng về
phía Bắc trong điệp vụ tập kích, khi con tàu dừng nửa chừng với toàn bộ
toán biệt kích trên boong, tiền thưởng đã hết.
SOG đề nghị và được chấp thuận cho triển khai các toán thám báo thực hiện
hoạt động ở miền Nam, chống "các cơ sở của- hoặc nghi ngờ của Việt Cộng
cũng như các mục tiêu quân sự của quân đội miền Bắc và Việt Cộng dọc
theo bờ biển của vùng 1 chiến thuật. Các toán này có cố vấn Mỹ đi kèm".
(
)Việc này cải thiện tỷ lệ thành công của các toán biệt kích vì nhân viên
thám báo của thuỷ quân lục chiến hoặc SEAL có thể lãnh đạo và hỗ trợ cho
họ. Tuy nhiên hoạt động này không mấy liên quan đến mục tiêu của Kế
hoạch 34A.
Yếu tố thứ hai đóng góp vào hồ sơ ảm đạm của OP37 trong năm 1966 là sự
miễn cưỡng của thuyền viên và biệt kích không muốn đụng độ với đối
phương. Trainor nhớ lại: "Nếu tôi sẽ xuống âm phủ thì tại sao phải lên
bờ?... Tôi hiểu tại sao không đưa nhân viên Mỹ ra miền Bắc, nhưng với
những toán này, họ sẽ không làm gì cả trừ khi có mặt người Mỹ hoặc có sự
lãnh đạo cứng rắn trong toán - và đây không phải là một phần của văn hoá
của họ. Vì thế, nếu không có người Mỹ, khả năng lên bờ là cả một vấn đề...