Khi cuốn Body Language (Tạm dịch: Ngôn ngữ cơ thể) của tác giả
Allan Pease và nhà di truyền học Anne Moir cùng xuất hiện trên
truyền hình Anh năm 1991 để giới thiệu cuốn Brainsex (Bộ não giới
tính) và Talk Language (Ngôn ngữ nói) (Harper Collins), Moir tiết lộ
các kết quả trong nghiên cứu của bà, điều đáng chú ý mà các nhà
khoa học đã biết nhiều năm nay – tình dục đồng giới là bẩm sinh,
chứ không phải là một lựa chọn.
Không chỉ tình dục đồng giới đa phần đều là bẩm sinh, mà môi
trường chúng ta phát triển chủ yếu cũng đóng vai trò thấp hơn
trong hành xử của chúng ta chứ không cao như suy nghĩ trước đây.
Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng ở một người đang độ tuổi lớn
hoặc đã trưởng thành, những nỗ lực của các bậc cha mẹ nhằm cấm
đoán xu hướng tình dục đồng giới ở con cái họ hầu như không có
kết quả. Và chính vì sự tác động của hoóc môn nam (hoặc sự thiếu
hụt nó) đối với não bộ là thủ phạm chính, phần lớn những người
đồng tính đều là nam giới.
Không có bằng chứng có cơ sở nào về việc giáo dục có ảnh
hưởng tới khả năng một đứa trẻ trở thành người đồng tính.
Đối với tất cả những người đồng tính nữ (cơ thể là phụ nữ
nhưng não bộ là nam giới) có tỷ lệ là 8/10 so với người đồng tính
nam. Nếu hành vi của người đồng tính cả nam và nữ theo hướng
của nghiên cứu này, và nếu như hệ thống giáo dục đưa những phát
hiện này và chương trình giảng dạy, thì những người đồng tính và
chuyển giới sẽ không phải chịu đựng nhiều định kiến như hiện nay.
Phần lớn chúng ta đều dễ tha thứ và chấp nhận một người bẩm
sinh đã khác biệt hơn là một người, theo quan điểm của họ, có một lựa
chọn không thể chấp nhận nổi. Ví dụ, những đứa trẻ dị tật vì ảnh
hưởng của thuốc giảm đau, các nạn nhân của chứng Parkinson, tự kỷ
hoặc chứng bại não. Cộng đồng cũng dễ chấp nhận những người