một cơ hội lý tưởng, thậm chí còn lý tưởng hơn khi một người bạn của gia đình
chúng tôi là chủ công ty điện thoại. Chính ở đây tôi phải chịu đựng sự suy sụp
thần kinh hoàn toàn mà tôi đã đề cập ở phần trước. Căn bệnh đã hành tôi đến độ
không tưởng tượng nổi. Thị giác và thính giác của tôi luôn luôn khác thường. Tôi
có thể nhận ra rõ ràng các đối tượng ở đằng xa khi những người khác không nhìn
thấy gì cả. Nhiều lần trong thời niên thiếu, tôi đã cứu nhà hàng xóm khỏi bị cháy
nhờ nghe tiếng lách tách nho nhỏ và kêu cứu, trong khi hàng xóm ngủ chẳng hề
hay biết. Năm 1899, khi tôi đã hơn 40 và đang tiến hành các thí nghiệm ở
Colorado, tôi có thể nghe rõ tiếng sấm rền ở khoảng cách 550 dặm. Tai tôi nhạy
cảm hơn người thường 13 lần. Tuy nhiên hồi đó, trong trạng thái bình thường,
thính giác của tôi kém hẳn - nếu không muốn nói là điếc đặc - so với thính giác
trong trạng thái căng thẳng thần kinh.
Khi trong trạng thái căng thẳng ở Budapest, tôi có thể nghe tiếng tích tắc của
một chiếc đồng hồ cách tôi 3 căn phòng. Một con ruồi đậu xuống bàn trong
phòng cũng gây ra một tiếng động nặng nề trong tai tôi. Một cỗ xe đi qua ở
khoảng cách vài dặm làm lắc lư toàn thân tôi. Tiếng còi của một đầu máy cách xa
20 hay 30 dặm cũng làm bàn ghế tôi ngồi rung mạnh, đầu đau không chịu nổi.
Mặt đất dưới chân tôi rung lên liên tục. Tôi phải kê giường trên đệm cao su để có
thể nghỉ ngơi đôi chút. Những tiếng động ầm ầm gần xa hiện rõ thành lời nói
trong não tôi, khiến tôi sợ muốn chết cho tới khi phân tách được các âm thanh
này ra riêng. Những tia nắng mặt trời lúc ẩn lúc hiện thường tác động mạnh vào
bộ não làm tôi choáng váng. Tôi đã phải triệu tập tất cả sức mạnh ý chí của mình
để đi qua bóng râm dưới cây cầu hay các vật thể tương tự, bởi sự thay đổi ánh
sáng làm hộp sọ tôi như bị đá đè vậy. Trong bóng tối tôi có giác quan của một
con dơi, và có thể phát hiện sự hiện diện của một đối tượng ở khoảng cách gần 4
mét bởi một cảm giác rờn rợn đặc biệt ở trên trán. Mạch đập của tôi thay đổi từ
một vài nhịp đến 260 nhịp và tất cả các mô của cơ thể tôi có những cơn co giật và
run, có lẽ trạng thái này là khó chịu nhất. Một bác sĩ nổi tiếng cho tôi một liều
kali bromide nặng và nói rằng bệnh của tôi trước nay ông chưa hề thấy và có lẽ là
sẽ không thể chữa khỏi.
Điều tôi mãi hối tiếc chính là lúc đó không được các chuyên gia sinh lý và
tâm lý học quan sát. Tôi tuyệt vọng bám lấy cuộc sống, không hề mong ngày hồi
phục. Ai có thể tin rằng một người bị khiếm khuyết về thể xác, vô vọng như vậy
lại có ngày biến thành người có sức mạnh và sự kiên trì kỳ lạ, với khả năng làm