lại đều thuộc về các ngươi. Nếu các ngươi không ăn, há chẳng phải buộc
chúng ta đổ thức ăn đi sao?”
Ngân Lang chớp chớp ắt, dựa theo lời lúc trước Thượng Quan Ngưng
Nguyệt dạy, gằn từng chữ một nói:“Dưới nắng hè chói chang, người nông
dân đầu đội mũ rơm, thân mặc y phục vá vụn, mồ hôi đầm đìa đi chân trần,
dieendaanleequuydonn cầm lấy cái cuốc cày phần đất cằn bị nắng chiếu
khô, rồi cật lực nhổ cỏ trong ruộng hoa màu. Cho đến khi nông dân vừa
mệt vừa đói, cũng không chịu tạm nghỉ một chút. Bởi vì...”
Ngân Lang bưng lấy bánh màn thầu và cháo, thong thả chậm rãi đi tới
trước mặt Địch tướng quân, nói:“Thu hoạch, nếu lúc này hắn không vất vả
cần cù cuốc đất, vào thu sao có thể gặt được mùa? Nếu không đạt được
mùa, thì sao có thể bán đổi ngân lượng, nuôi sống một nhà già trẻ? Vì vậy,
nông dân chỉ có thể tiếp tục cật lực cày cuốc, khiến từng giọt mồ hôi hột rơi
đầy đất.”
Kể xong, vẻ mặt Ngân Lang đầy chua xót đồng tình, đưa bánh màn
thầu và cháo tới trước mặt Địch tướng quân.
“Đây thật đúng là cày đồng đang buổi ban trưa, mồ hôi thánh thót như
mưa ruộng cày, ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn
phần. Địch tướng quân, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần đó! Mỗi
một hạt gạo này, đều chứa đầy tâm huyết của các nông dân, nếu ngài buộc
chúng ta đổ hết bữa trưa, chẳng phải là lãng phí lương thực, giẫm đạp lên
thành quả của nông dân sao? Ngài... có nhẫn tâm không?”
Địch tướng quân á khẩu không trả lời được, thậm chí còn có vài phẫn
hỗn loạn trong gió, sau khi khóe miệng co giật một hồi, chỉ có thể tự tay
nhận lấy bánh màn thầu và cháo.
Không chỉ Địch tướng quân nhận lấy bữa trưa, binh sĩ hai nước Tây
Thần, Thương Nguyệt cũng lấy bữa trưa.