nhiều khi cũng hành động như kẻ bị mù. Còn Samin thì nhiều lần khéo léo
tránh đòn địch rồi bất ngờ thọc ngang vào sườn hay chọc từ sau lưng.
Chắc người dân miền núi nào cũng có riêng hình ảnh của Samin. Tôi
cũng hình dung ra ông theo cách riêng của mình.
Dạo ấy ông còn trẻ, Trên tảng đá lớn bằng phẳng ở Akhungô, ông đã quỳ
xuống, hai tay đưa lên trời cao - đôi bàn tay vừa rửa trong dòng nước sông
Kôixu của người Avar. Ống tay áo xắn lên. Đôi môi lẩm bẩm nói lời gì -
một số người cam đoan rằng khi làm lễ cầu nguyện hễ ông thốt ra từ “Đức
Allah” thì người chung quanh nghe thành chữ “tự do” và khi ông thì thào
nhắc tới chữ “tự do” thì người ta cũng nghe như chữ “Đức Allah”
Khi ông có tuổi. Trên bờ biển Caxpie, ông đã mãi mãi từ giã Đaghextan,
lúc này ông đã là tù binh của Sa hoàng. Ông trèo lên tảng đá cao và đưa mắt
nhìn biển Caxpie đang nổi sóng. Đôi môi ông đáng lẽ lẩm bầm từ “Đức
Allah” và “tự do” thì lại khẽ nói lời “từ biệt”- người ra nói rằng vào phút ấy
trên gò má ông đã hơi ươn ướt. Nhưng mà Samin chưa bao giờ khóc. Chắc
đó là do bọt sóng biển bắn tung lên.
Tuy thế, tôi vẫn thường hình dung ra ông rõ nhất qua câu chuyện của bố
tôi, trong ngôi nhà chật hẹp, lúc ẩu đả ác liệt kéo dài với tên cướp phát
khùng.
Với Khátgi-Murát, có lúc ông sống hòa thuận, có lúc bất hòa. Nhiều
chuyện thật có, mà tưởng tưởng cũng có, lưu truyền trong dân gian.
Sau khi cất nhắc Khátgi-Murát lên địa vị phó tướng, Samin đã phái ông
đến miền Khaiđắc và Tabaxaran để lôi kéo họ thao mình, hay đúng hơn là
đưa họ vào cuộc chiến. Ông hy vọng rằng Khátgi-Murát sẽ dùng lời lẽ mà
thuyết phục họ, tuy nhiên, vị phó tướng mới nhậm chức đã thi hành một
chính sách roi vọt và bạo lực ở Khaiđắc và Tabaxaran. Nếu có ai nói bóng
gió đến luật lệ thì Khátgi-Murát giơ nắm đấm mình ra chỉ và nói: