- Lão Mạnh, cố nhân gặp lại, cái gì quý nhân với cả quý nhân? Chỉ là
một tiểu quan, nói cái gì mà vẻ vang thế? Nói những lời này, Quý Minh ta
phạt lão hai vò rượu!
Thanh niên bên cạnh cũng chắp tay thi lễ:
- Mạnh lão khách khí rồi. Mạnh lão mặc dù ở xa xôi nhưng tài danh đã
lan xa khắp chốn, toàn bộ Lạc Dương đều biết, sao lại tự coi nhẹ bản thân
như vậy. Hôm nay theo Quý Minh đến xin Mạnh lão mấy chén Ngọc Hồ
Xuân! Làm phiền quá!
Ba người hàn huyên, hoàn toàn không chú ý tới thiếu niên đứng ở phía
Mạnh Sưởng đã “vặn vẹo” tới mức sắp biến hình. Nếu cẩn thận nhìn kỹ, có
thể thấy rõ trên khuôn mặt trắng trẻo của hắn đang khẽ co giật: Ta ngất,
không ngờ lại gặp danh nhân ở đây.
Thảo thánh Trương Húc, lừng lẫy nổi danh đại thư pháp, không chỉ có
lừng danh Đại Đường mà còn nổi tiếng cả đời sau. Nghe nói thái độ làm
người phóng khoáng không gò bó, rộng rãi hơn người, tài hoa hơn người,
học thức uyên bác, thường uống rượu say mèm, liền ăn nói ngông cuồng,
sau đó hạ bút thành thơ, thậm chí nhúng tóc vào mực để viết, có danh xưng
“Trương điên”. Sau này hậu nhân kế thừa và phát triển bút pháp này, cũng
gọi là lối viết thảo, còn gọi là “Điên Trương Túy Tố”
Còn vị Nhan Chân Khanh này không chỉ nổi danh là thư pháp gia, mà
còn là một người ái quốc vĩ đại. Ông ta sáng lập ra “thể chữ Nhan”, được
xưng là “Khải thư tứ đại gia” cùng với “thể chữ Khải” của Triệu Mạnh Phủ,
Liễu Công Quyền, Âu Dương Tuân, cũng được xưng “Nhan cân liễu cốt”
cùng với Liễu Công Quyền. Năm Thiên Bảo thứ mười bốn, An Lộc Sơn
phát động phản loạn, ông liên lạc với anh họ là Nhan Cảo Khanh khởi binh
chống cự, mười bảy quận phụ cận cùng theo, được tôn làm minh chủ hợp
binh 20 vạn, khiến An Lộc Sơn không dám vội vàng tấn công Đồng Quan.
Năm đầu tiên Đức tông Hưng Nguyên hoài tây Tiết độ sứ Lý Hi Liệt phản