Nghĩa là:
Của cải ra từ Quảng Nam, nhờ khanh ngàn dặm phun mưa ngọt.
Mưu mô dựng ở trong cõi, vì cả một nước làm can thành (91)
Khi Đình Khánh chết, được tặng phong là Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại
phu, Thái thường tự khanh, thụy là Thông Trí. Minh Mạng năm thứ 5 gia
phong là thần Trung hiếu, cũng cho dân xã Hà Trung thờ.
Con thứ Đình n là Đình Thuận, do chân ấm được bổ Văn chức. Hiển Tông
Hoàng Đế năm thứ 12 (1703), Thuận cùng Ngoại tả Chưởng cơ Tôn Thất
Diệu vâng chiếu chỉ đôn đốc binh lính đắp đê ở kênh Hà Kỳ, từ Lai Cách
đến Thủy Tiên, tất cả năm chỗ để tiện vận tải. Một tháng thì làm xong,
được thưởng bạc theo thứ bậc.
Năm Hiển Tông thứ 13 (1704), Đình Thuận được thăng Đô tri, năm thứ 15
(1706) được thăng Cai bạ Phó đoán sự.
Con Đình Khánh là Đình Hy, trải làm quan đến Cai bạ Bình Thuận. Thế
Tông Hoàng Đế năm đầu (1738) vào làm Chánh doanh Tri bạ. Năm 14
(1752) cùng Cai cơ kiêm Hình bộ Nguyễn Hữu Bác làm Khâm sai tuần xét
quan lại các huyện trong kỳ phụ. Đến lúc về, Hy được thăng Hộ bộ kiêm
Binh bộ, rồi chết.
Con là Hiến, ấm thụ Hàn lâm viện, trải làm quan đến Ký lục doanh Quảng
Nam.
Vũ Đình Phương
Người huyện Lệ Thủy thuộc Quảng Bình. Cha là Thế, đỗ Hương tiến, làm
Tri phủ Quy Ninh (tên gọi của phủ Quy Nhơn từ 1651 đến 1742). Đình
Phương từ thuở trẻ đã chăm học, khéo làm văn. Năm 18 tuổi, khoảng đời
Thần Tông Hoàng Đế, thi Hương đỗ thủ khoa. Đình Phương mặt rỗ, người
lùn, đầu rất to, khác hẳn mọi người. Người ta gọi là: "ông cống đầu". Chúa
cho vời vào yết kiến, thấy trạng mạo xấu nói: "Đáng tiếc, có tài, không có
tướng". Bèn cho về.
Phương ở nhà, xem rộng kinh sử, thông hiểu binh thư. Năm ông đã 50 tuổi,
đời Thái Tông Hoàng Đế, bên Trịnh muốn thử nhân vật Nam triều, có đưa
tặng một cái trống lớn, và một cái dùi gỗ dài độ 1 thước, mặt dùi viết ba
chữ lớn "Hồ bất thực" thếp vàng. Chúa lấy làm lạ, hỏi thì tả hữu không ai