đẳng, cho thờ phụ ở Thái Miếu, cấp 15 mẫu tự điền, 6 người coi mả, ấm thụ
cháu nội là Duy Tình làm Cai hợp, được thế tập Đội trưởng, coi giữ việc
thờ cúng. Năm Gia Long thứ 9 (1810) cho thờ vào miếu Khai quốc công
thần. Minh Mạng năm thứ 12 (1831) truy tặng là Khai quốc công thần, Đặc
tiến Vinh lộc đại phu, Đông các đại học sĩ, Thái sư, phong Hoằng quốc
công. Năm thứ 17 (1836) sai sở tại sửa sang phần mộ.
Duy Từ có tài thao lược văn võ, phụ chính 8 năm, công nghiệp rỡ ràng,
đứng đầu các khai quốc công thần. Tác phẩm có Hổ trướng khu cơ tập và
Ngọa Long cương ngâm lưu truyền ở đời. Cháu xa đời là Duy Mẫn, đầu đời
trung hưng, làm quan đến Khâm sai Tham tán.
Bùi Tá Hán
Người huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Nghĩa. Tá Hán làm quan với nhà
Lê, từ chức thổ quan, dần dần làm đến Bắc quân Đô đốc phủ Chưởng phủ
sự, Tổng trấn Quảng Nam Thiếu bảo, Trấn quận công. Tá Hán khi làm
quan, chú trọng ban ân huệ, vỗ yên quân và dân, trăm họ yêu mến gọi là
Trấn Bắc công.
Năm Mậu Ngọ (1558) Thái Tổ Hoàng Đế vào trấn Thuận Hóa thường có
giặc ở phía đông đến. Tá Hán đem quân Quảng Nam đi cứu ứng, giặc
không dám phạm. Lại thường đem quân đi đánh các man Thạch Bích ở
Quảng Nghĩa, theo ven núi đặt đồn để chống giữ, biên cảnh được yên. Lúc
mới khai quốc, Tá Hán dự vào hàng có công lao. Mậu Thìn Thái Tổ năm
thứ 11 (1568), Tá Hán ốm chết, tặng phong Thái bảo. Về sau hiển linh,
chúa cho sở tại lập đền thờ, ban cho áo thật và đồ thật để thờ. Minh Mạng
năm thứ 13 (1832) phong thêm là Khuông quốc Tĩnh biên Thụ đức thượng
đẳng thần.
Cháu xa đời là Phụ Phong , đầu đời Thiệu Trị (1841) làm quan đến Bố
chính Sơn Tây, vì liên lụy bị tội, phải miễn quan, sau được khởi phục, bổ
làm Tri phủ Hoằng An, rồi chết.
Tr
Không rõ quê quán ở đâu, ông cha là ai. Ban đầu theo Thái Tổ Hoàng Đế
vào Nam, làm quan đến Phó tướng, tước Trà quận công. Bấy giờ có người
huyện Khang Lộc là Mỹ Lương cùng em là Văn Lan và Nghĩa Sơn đều nhờ