Nhâm Tuất (1802) thì hết (cộng 10 năm), thông tính cộng 25 năm; nhưng
từ năm Kỷ Dậu nhà Lê mất, Huệ mới chiếm cứ được nước, tính từ năm ấy
đến năm Canh Tuất Quang Toản bị bắt, chỉ có 14 năm thôi.
QUYỂN 31
TRUYỆN CÁC NƯỚC NGOÀI I
Nước Cao Man
Cao Man có tên nữa là nước Chân Lạp, lại một tên nữa là nước Cao Miên.
(Lúc đầu đời Thiệu Trị tránh tên húy vẫn gọi là Chân Lạp, đến năm thứ 7,
đổi lại làm tên bây giờ).
Nguyên thời cổ là thuộc quốc của nước Phù Nam, sau nước Phù Nam dần
dần suy đi, mới gộp cả vào nước Chân Lạp; đến khoảng năm Thần Long
(niên hiệu của Đường Trung Tông đời Đường (705) mới chia nước ra làm
hai, một nửa miền Bắc nhiều núi, gọi là Lục Chân Lạp, đất rộng 700 dặm,
vua hiệu là Thả Khuất; một nửa miền Nam gần biển nhiều chuôm chằm,
gọi là Thủy Chân Lạp, đất rộng 800 dặm, vua ở thành Bà La Đề Bạt. Đời
Đường hai nước đều đến tiến cống, đều phong là Vương. Đến đời Tống
hợp lại làm một, gọi là nước Chân Lạp. Từ khi nước An Nam dựng nước,
năm Thuận Thiên thứ 3, đời Lý Thái Tổ (năm Tường Phù thứ 5 đời Tống,
1012), nước Chân Lạp mới sang tiến cống, ba năm một lần sai sứ đến, rồi
sau cùng Chiêm Thành đến xâm lấn Nghệ An, thường bị thua chạy. Từ đây
mới dứt đi không thông cống sứ nữa, sang Bắc triều cống nhà Nguyên; đến
đầu đời nhà Minh, vua nước ấy là Hốt Nhi Na Đa đưa tờ biểu dâng sản vật
địa phương; đến năm Vĩnh Lạc (niên hiệu của Minh Thành Tổ) không có
đường sai sứ sang vìớ Chiêm Thành xâm lấn quấy nhiễu, không thể đi
được. Thái Tổ Hoàng đế bản triều ta mới gây nền ở Thuận Hóa, chỉ lấy
Chiêm Thành làm nơi phụ quách, riêng sửa sang trước, mà hoãn mưu tính