đến nước Lạp. Năm Mậu Tuất thứ 10, đời Thái Tông Hoàng đế (1658) vua
nước ấy là Nặc Ông Chân xâm phạm biên giới (kính xét: Sách Gia Định
thông chí chép rằng: Người nước ấy có tên không có họ, phàm con cháu
của vua đều xưng là Nặc Ông, Chân là tên, mà tên thì lấy chữ đẹp mà đặt,
tuy ông, cháu cùng một tên cũng không kiêng tránh). Phó tướng doanh Trấn
Biên tên là Tôn Thất Yên vâng lệnh tiến đánh, cả phá quân Man ở thành
Hung Phúc (tức là đất huyện Phúc Chính tỉnh Biên Hòa ngày nay) bắt Chân
đem về dâng, vua tha tội cho, sai quan quân hộ đưa về nước, khiến làm
phiên thần, hàng năm đưa lễ tiến cống.
Giáp Dần, năm thứ 26 (1674) Chân chết. Nặc Ông Nộn lập lên, bề tôi là Ô
Đài làm phản, viện nước Xiêm đánh lại Nộn, Nộn chạy đến nước ta, vua sai
bọn Thống binh Nguyễn Dương Lâm đi đánh, Ô Đài chạy rồi chết. Nặc
Thu xin hàng, triều nghị cho Nặc Thu là phái đích, phong cho làm Chính
quốc vương, ở thành Long Úc; đổi phong Nộn làm Nhị quốc vương ở thành
Sài Gòn, dâng lễ cống hàng năm như cũ.
Kỷ Vị, năm thứ 31 (1679) Tổng binh nhà Minh là bọn Dương Ngạn Địch,
Trần Thượng Xuyên, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem binh thuyền về
với ta. Triều đình đương để ý đến đất Đông Phố nước Chân Lạp, nhân thế
bèn thu nạp bọn Địch, cho bọn Địch ở Mỹ Tho (nay là Định Tường), cho
bọn Thượng Xuyên ở Bàn Lân (nay là Biên Hòa) khiến cho mở rừng rậm,
lập ra phố chợ. Từ đấy người nước Thanh, người Tây dương và các nước
Nhật Bản, Chà Và họp đông đúc buôn bán, Đông Phố bèn thành ra chỗ đất
vui vẻ.
Mậu Dần, năm thứ 7 đời Hiển Tông Hoàng đế (1698) mới lấy đất Đông
Phố, đặt phủ Gia Định, dựng doanh Phiên Trấn, mở đất rộng nghìn dặm,
được hơn bốn vạn hộ. Trước đây sau khi đất Đông Phố mở mang 6 năm,
Dương Ngạn Địch bị thuộc hạ là Hoàng Tiến giết chết, Chính vương nước
Chân Lạp là Nặc Thu làm phản, đắp ba lũy La Bích, Cầu Nam, Trà Vinh để
tự giữ lấy. Phó vương là Nặc Nộn Cao Biên cầu cứu, sai Vạn Long đem