Mộc; bộ quân của Lê Văn Duyệt, Lê Chất đến sông Thanh Long cướp kho
Kỳ Lân; Trấn thủ Nghệ An của ngụy là Nguyễn Văn Thận, Hiệp trấn là
Nguyễn Triêm, Thủy quân thống lĩnh là Đại Thiếu úy là Đăng bỏ thành
chạy đến đồn Tiên Lý (tức là phủ thành Diễn Châu ngày nay). Triêm tự thắt
cổ chết, Thận chạy đến Thanh Hóa, đại binh đã lấy được Nghệ An, đặt
quan lại để trị, Quang Diệu từ Quy Hợp xuống Hương Sơn, nghe thấy Nghệ
An đã phá, bèn qua Thanh Chương sang sông Thanh Long, nhưng người đi
theo dần dần tản đi cả. Diệu và vợ là Thị Xuân đều bị quan quân bắt sống
ược; Văn Dũng cũng bị thổ dân Nông Cống bắt giải. Đại binh đến Thanh
Hóa, ngụy Đốc trấn là Quang Bàn và Thận cùng Đằng đều xin hàng. Quân
ta nhân thế thắng tiến lên không ai dám chống cự cả.
Ngày 16 tháng 6, Quang Toản tự liệu thế không chống được cùng em là
Quang Thùy, Quang Thiệu và bọn Tư mã Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn
Tứ, Đô đốc Tứ sang qua sông Nhị Hà chạy lên miền Bắc, chạy đến Xương
Giang, đêm ngủ trọ lại, dân thôn mưu bắt. Quang Thùy tự thắt cổ chết,
Toản bị dân huyện Phượng Nhãn (tên Chích Thiêm) bắt được, đóng cũi đưa
đến Bắc Thành.
Ngày 23, vừa vào thành Thăng Long, quan lại văn vũ các trấn tranh nhau
đến trước chỗ đóng quân đầu thú. Mùa đông năm ấy vua về Kinh cáo tế ở
Miếu dũng, những tù bắt được, đem hết phép để trừng trị, đào phá mộ
Nhạc, mộ Huệ đem hài cốt vất đi, giam đầu lâu ở nhà ngục, đổi ấp Tây Sơn
gọi là ấp An Tây.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) bắt được con Nhạc là Văn Đức, Văn
Lương, cháu là Văn Đâu (con Văn Đức) đều đem chém ngang lưng. Bấy
giờ dòng giống Tây Sơn không còn sót một người nào nữa.
Kính xét: Anh em Tây Sơn chia ra cai trị không cùng thông thuộc với nhau.
Ngụy Nhạc nổi lên từ năm Mậu Tuất (1778) đến năm Quý Sửu thì hết
(cộng 16 năm). Ngụy Huệ nổi lên từ năm Mậu Thân (1788) đến năm Nhâm
Tý thì hết (cộng 5 năm), Ngụy Toản nổi lên năm Quý Sửu (1793) đến năm