cống, đến đấy nghe Duyệt đi kinh lược, Man tù là Phi Sĩ Phu Hâm cũng tự
đến cửa quân nộp lòng thành cầu nội thuộc, Duyệt đem việc tâu lên, vua
chiếu nghe cho, bèn bày làm cống man.
Vua lại nghĩ sửa sang việc nước, xếp đặt việc dân là đại chính của nhà
nước. Các trấn Bắc Thành đã từ năm Gia Long thứ 6 (1807) bỏ sổ thường
hành cũ làm lại sổ đinh. Duy hai trấn đạo Thanh Nghệ còn chưa thi hành.
Đến đấy sai làm sổ đinh giao cho Duyệt đốc làm việc ấy.
Duyệt dâng sớ nói rằng: "Sổ đinh là đại chính, được người khá làm thì tốt,
không được người khá làm thì tệ. Nay đặt pháp lệnh rằng: Dân khai sổ đinh
dối trá thì có tội, ai tố giác ra thì có thưởng. Khuyên răn đã rõ ràng rồi.
Những tránh nặng cầu nhẹ là thường tình người, điều cấm dẫu nghiêm, thế
không hay ngăn được. Nếu những người thừa hành có quan phủ huyện khá
thì còn được, nếu không thì sổ thường hành đã lo là không đều mà làm sổ
mới sự không đều lại còn hơn nữa. Nay quan phủ huyện các trấn đạo nhiều
người già ốm hèn yếu xin thôi chức ấy, xin lập tức chiếu chân nào khuyết
mà chọn người bổ vào". Tờ sớ này dâng lên, vua bằng lòng cho làm theo sớ
tâu lên. Tháng 7, sổ đinh 2 trấn ấy làm xong, vua cho triệu Duyệt về triều.
Lúc bấy giờ đám giặc ra thú hơn 900 người, Duyệt tâu xin tha tội, dàn bổ
làm lính, (người quê ở Thanh Hóa hơn 420 người đặt làm cơ Thanh Thuận,
người quê Nghệ An hơn 480 người đặt làm cơ An Thuận) thuộc 2 trấn đi
làm việc công, con Hà Công Thái là Công Quỳnh cũng xin trao làm Cai
đội. Con Tất Phúc là Tất Công, Tất Tại;u cho làm Phòng ngự thiêm sự,
khiến cho cai quản dân 4 xã là Sơn m, Châu Lại, Trường Môn, Băng
Lương, phụ giữ đồn Chi Nê.
Tháng 9, Duyệt đến kinh, vua úy lạo hỏi han giờ lâu, Duyệt tâu rằng: Lần
đi này mang uy trời theo, miếu môn 2 trấn may đã an ninh, duy dân gian
trước có ẩn lậu điền thổ, gần đây đã biên vào sổ điền, lệ đinh thuế ruộng
công, thuế cùng nặng dân lấy làm khổ, xin đổi sổ ấy đi cho theo dân
nguyện. Vua nói rằng: Nếu việc làm lợi dân, ta tiếc gì đâu.