dĩ bắt Tuyên đưa cho, Dũng sai giam vào ngục. Ngô Văn Sở là bè lũ của
Tuyên, Dũng làm tờ chiếu giả dối sai Tiết chế là Quang Thùy đóng gông
đưa về kinh. Lại sai Nguyễn Văn Huấn đem quân vây Quy Nhơn, bắt con
Tuyên là Đắc Trụ giải về, thêu dệt nên tội trạng làm phản, đều dìm xuống
nước để giết đi. Toản không thể ngăn cản được, chỉ chảy nước mắt khóc
thôi. Quang Diệu đương vây Diên Khánh, nghe tin báo, cả sợ bảo với thuộc
hạ rằng: Chúa không có đức cương quyết, đại thần giết lẫn nhau là biến lớn
đấy, biến ở bên trong không yên thì lấy gì mà chống được người. Ngay
ngày hôm ấy giải vây trở về. Dũng cho là Diệu cùng Đắc Tuyên có tình
nghĩa thân gia (vợ Diệu là Bùi Thị Xuân tức là cháu gái họ của Tuyên) sợ
có biến khác, bèn ủy cho Công Hưng đem quân đón Quang Diệu để điều
đình việc ấy.
Khi ấy Nguyễn Văn Huấn giữ Quy Nhơn, nghe tin Diệu về lại tạ tội trước
Diệu không hỏi gì. Quân đến An Cựu, đóng đồn ở bờ bên Nam sông, Dũng
cùng bọn Nội hầu là Tứ đóng quân ở bên Bắc sông, đem mệnh lệnh vua để
chng cự. Quang Toản lo sợ, không biết làm thế nào, sai người đi lại yên ủi
dỗ dành để hòa giải. Diệu mới đem người bên tả bên hữu vào yết kiến,
cùng bọn Dũng giảng hòa, Diệu xin đem Lê Trung thay Huấn giữ Quy
Nhơn mà triệu Huấn về.
Bấy giở Toản đã thân làm triều chính, năm ngày một lần coi chầu. Năm ấy,
Thái úy là Công Hưng vì có bệnh chết, bèn lấy Diệu làm Thiếu phó, Huấn
làm Thiếu bảo, Dũng làm Đại tư đồ. Nguyễn Văn Danh (có chỗ chép là
Nguyễn Văn Tứ) làm Đại tư mã, gọi là tứ trụ đại thần. Hoặc có người gièm
rằng, Diệu uy quyền quá to sẽ có mưu toan khác. Toản bị mê hoặc, thu lấy
binh quyền của Diệu, chỉ cho lấy bản chức vào chầu hầu thôi. Diệu trong
lòng nghi sợ, thường cáo ốm không vào chầu, sai bọn thủ hạ vài trăm
người, ngày đêm cầm binh cự để tự vệ. Quang Toản thường sai trung sứ
đến ủy lạo phủ dụ.