An Nghĩa công chúa Ngọc Ngôn: Con gái thứ mười của Thế Tổ, là em gái
cùng mẹ với Quảng Uy công tên là Quân. Năm Minh Mạng thứ 4, gả cho
Lê Văn Yên là con cả Lê Văn Phong làm con thừa tự Lê Văn Duyệt. Năm
thứ 16 (1835) việc án của Duyệt phát ra, Yên bị tội phải xử tử. Năm Tự
Đức thứ 7, phong là An Nghĩa thái thái trưởng công chúa. Năm thứ 9, chúa
mất, thọ 53 tuổi, tên thụy là Trinh Lệ, có ba con trai.
Công chúa Ngọc Khuê: Con gái thứ 12 của Thế Tổ, là em gái cùng mẹ với
công chúa Ngọc Ngôn. Năm Minh Mạng thứ 6, gả cho Vệ úy Nguyễn Văn
Thiện là con thứ của Kinh Môn quận công Nguyễn Văn Nhân. Năm Minh
Mạng thứ 8, chúa mất, tuổi 21, tên thụy là Trinh Ý. Năm thứ 9, Thiện chết,
có một con trai.
Định Hòa công chúa Ngọc Cơ: Con gái thứ 13 của Thế Tổ, mẹ là mỹ nhân
họ Nguyễn Đình. Năm Minh Mạng thứ 10 gả cho Vệ úy Nguyễn Hoàng
Thành là con thứ của Kiến Xương quận công Nguyễn Hoàng Đức. Năm thứ
13, Thành chết, chúa dựng am ở làng Dương Xuân để ở; năm Tự Đức thứ
9, chúa mất, thọ 49 tuổi, tặng là Định Hòa thái thái trưởng công chúa, tên
thụy là Đoan Nhàn, có hai con trai.
Hoàng nữ Ngọc Thiều: Con gái thú 14 của Thế Tổ, mẹ là tài nhân họ
Nguyễn Viết, một tuổi thì chết.
Hoàng nữ Ngọc Lý: Con gái thứ 15 của Thế Tổ, mẹ là Tài nhân họ Trần,
năm Gia Long thứ 18, mùa xuân chúa mất, mới mười một tuổi.
Công chúa Ngọc Thành: Con gái thứ 16 của Thế Tổ, mẹ là Tài nhân họ
Phan, năm Minh Mạng thứ 10 gả cho Vệ úy Hồ Văn Thập là con Phúc quốc
công Hồ Văn Bôi, chưa cưới mùa đông năm ấy chúa mất, tuổi 18, tên thụy
là Nhu Khiết.
Hoàng nữ Ngọc Bích: Con gái thứ 17 của Thế Tổ, mẹ là mỹ nhân họ Trần.
Mùa hạ năm Gia Long thứ 13, hoàng nữ chết, mới lên tám tuổi.