Bảo Thuận công chúa Ngọc Xuyến: Con gái thứ năm của Thế Tổ, là em gái
cùng mẹ với Bình Thái công chúa Ngọc Châu. Năm Gia Long thứ 17, gả
cho Vệ úy Nguyễn Hoàng Toán là con Kiến Xương quận công Nguyễn
Hoàng Đức. Năm ấy Toán chết; sau lại lấy Vệ úy Trương Văn Minh, Minh
cũng chết trước. Năm Minh Mạng thứ 21, phong là Bảo Thuận trưởng công
chúa. Năm Tự Đức thứ 4, chúa mất, thọ 60 tuổi, tên thụy là Trinh Tuệ,
không có con thừa tự.
Công chúa Ngọc Ngoạn: Con gái thứ sáu của Thế Tổ, mẹ là thứ nhân họ
Tống. Năm Gia Long thứ 17, gả cho Vệ úy Mai Đức Nho là con Vĩnh Lại
hầu Mai Đức Nghị. Năm ấy Nho chết, năm Minh Mạng thứ 8, chúa mất,
tuổi 33, tên thụy là Trang Khiết, không có con thừa tự.
An Thái công chúa Ngọc Nga: Con gái thứ bảy của Thế Tổ, mẹ là tài nhân
họ Dương. Năm Gia Long thứ 17, gả cho Vệ úy Nguyễn Đức Thiện là
conái Chân quận công Nguyễn Đức Xuyên. Năm ấy Thiện chết, không có
con thừa tự. Sau lại lấy Lãnh binh Trấn Tây là Vũ Viết Tuấn (1à con cả Thị
nội thống chế Vũ Viết Bảo). Năm Minh Mạng thứ 21, đem quân cứu viện
đồn Sa Tôn, bị thương nặng rồi chết; tặng là Chưởng vệ. Năm Tự Đức thứ
7, phong là An Thái thái thái trưởng công chúa (40). Năm thứ 9, chúa mất,
thọ 61 tuổi, tên thụy là Nhu Hòa. Có ba con trai, hai con gái.
Công chúa Ngọc Cửu: Con gái thứ tám của Thế Tổ, là em gái cùng mẹ với
Định Viễn công Bính. Năm Minh Mạng thứ 4, gả cho Lê Hậu là con Lê
Chất. Năm Minh Mạng thứ 11 Hậu chết, năm Thiệu Trị thứ 6, chúa mất,
tuổi 45, tên thụy là Uyển Thục, có ba con trai, một con gái.
Nghĩa Hòa công chúa Ngọc Nguyệt: Con gái thứ chín của Thế Tổ, mẹ là họ
Tống, được tặng là Chiêu dung. Năm Minh Mạng thứ 4, gả cho Phó vệ úy
Nguyễn Đức Hỗ là con đích của Khoái Châu quận công Nguyễn Đức
Xuyên. Năm Thiệu Trị thú 6, chúa mất, thọ 44 tuổi, tặng là Nghĩa Hòa thái
trưởng công chúa, tên thụy là Cung Khiết, có năm con trai, bốn con gái.