Thân, đại binh đến đóng ở Tam Phụ. Hội cùng Võ Tánh đánh giặc ở Ngũ
Kiểu, lấy đèn lồng sắt đốt rào của giặc, giặc sợ tan vỡ cả. Bắt sống được
không biết đâu mà kể. Bèn nhân thế được, tiến sát đến Sài Gòn, đánh phá
được Thái bảo của giặc là Phạm Văn Tham chạy đến, giữ Ba Thắc. Mùa
xuân năm Kỷ Dậu (1789) Hội điều khiển quân các đạo cùng bọn Võ Tánh
đánh giặc ở Hổ Châu, Tham sức kém bèn đầu hàng. Lại cùng Nguyễn Văn
Trương đánh dẹp bọn lũ còn lại của người Man Ốc Nha Ốc. Tân Hợi, bổ
làm Chưởng tiền quân doanh. Năm Quý Sửu (1793) thăng Khâm sai Bình
Tây đại tướng quân, tước quận công. Mùa hạ năm ấy, vua đi theo đường
thủy đến đánh Quy Nhơn. Hội đem quân bộ các đạo tiến đánh phá được đô
đốc của giặc là Hồ Văn Tự ở Phan Lý, Tự theo miền trên xứ Sâm Lô trốn
đi, lấy lại được Bình Thuận. Đại binh vào cửa biển Thi Nại, Hội từ Hà Nha,
Cù Mông chia làm hai đường đến đánh úp tên Bảo là con ngụy Nhạc ở Thổ
Sơn, Bảo thua chạy về thành Quy Nhơn. Hội cùng đạo binh họp lại bao
vây, giặc có quân cứu viện ở ngoài đến, bèn giải vây về đắp thành Diên
Khánh, để Hội ở lại giữ Phú Yên phòng giặc. Rồi sau triệu về, sai Đông
cung Cảnh ở lại trấn giữ.
Năm Giáp Dần, tướng của giặc là bọn Trần Quang Diệu họp quân vây Diên
khánh. Thế Tổ đem các tướng đến cứu viện, sai Hội điều khiển binh lính
doanh tiền thủy. Khi đến vùng La Nhung, giặc nghe đại binh đến giải vây
chạy. Bèn cho Hội làm tiên phong, tiến đánh cửa biển Thi Nại, liền lấy
được đồn Tiều Cơ, Mai Hương của giặc, lấy được khí giới rất nhiều, rồi kéo
quân về. Mùa đông năm ấy, Võ Tánhay trấn Diên Khánh, giặc lại bao vây,
Hội đóng quân ở Bà Rịa, để phòng tiến đánh.
Năm Ất Mão, Thế Tổ thân đốc quân thuyền đến cứu viện. Hội điều khiển
quân bộ các đạo tiến đến Phố Hời, đóng đồn ở Xuy Miệt. Mùa hạ năm ấy,
đánh phá tư lộ của giặc là Lê Trung ở Lũy Giang, giết quân và voi của giặc
rất nhiều. Trung lui giữ Hạc Giang, Hội xin thêm quân để nhân lúc sơ hở
đánh úp.