Thế Tổ dụ rằng: Ngươi xin thêm quân là ra mưu để đánh lấy được, nhưng
chỉ đánh phá được Diệu, thì Trung tự tan vỡ, không cần phải thêm quân.
Bấy giờ quân thủy quân bộ đánh giáp lại, Diệu thế ngày càng quẫn bách,
mật báo cho Trung mưu trốn đi. Hội tiến đóng đồn ở Lương Giang. Giặc
liền ngày cố đánh đều bị Hội đánh cho bị thua, bèn đêm trốn đi. Hội đốc
quân tiến đến Du Lâm, lại đánh cho giặc phải thua. Trung chạy đến Diên
Khánh hợp với Diệu, Hội tiến giữ Lạp Quán, bọn Diệu bỏ vây chạy đến
Quy Nhơn. Rồi sau kéo quân về, Hội ở lại trấn Diên Khánh. Chọn dân ở
Bình Khang, Diên Khánh làm lính, đặt ra 36 đội. Năm Bính Thìn triệu về
Gia Định.
Năm Đinh Tỵ, Thế Tổ thân đi đánh Quy Nhơn, để Hội ở lại trấn Gia Định.
Uy lịnh nghiêm túc, trong cõi yên lặng. Mùa đông năm Mậu Ngọ bị bệnh
chết, tuổi bốn mươi hai. Thế Tổ rất thương tiếc, tặng là Nguyên phụ công
thần, đặc tiến thượng phụ quốc chưởng doanh.
Hội là người nghiêm trọng, kính giữ lễ độ, công cao mà không khoe, ngôi
tôn mà càng khiêm tốn, mỗi khi vào chầu ra mắt đi đứng có chỗ thường, ăn
mặc như nhà Nho, các tướng đều kính mà sợ. Lê Văn Duyệt từng bàn luận
về điều được điều hỏng của các tướng, bảo rằng: Tống Viết Phúc hăng
mạnh mà không có mưu, Nguyễn Văn Thành có mưu mà ít hăng mạnh.
Duy Hội trí dũng gồm đủ thật là bậc danh tướng. Tính thích uống rượu, khi
ở trong quân hoặc có lúc uống đến say lịm đi. Thế Tổ từng khuyên răn.
Năm Gia Long thứ 3 (1804) liệt vào thờ ở đền Hiển Trung. Năm thứ 6 định
những người có công ở Vọng Các, liệt vào bậc nhất, cấp cho tự điền và phu
coi mộ. Năm thứ 9, liệt vào thờ ở miếu Trung Hưng công thần. Năm Minh
Mạng thứ 5 (1824) gia tăng làm Đặc tiến tráng vũ tướng quân, Tả trụ quốc
Thái phó Quận công, thụy là Trang Túc, cho phụ tế ở Thế Miếu. Năm thứ
12, tặng là Tá Vận tôn thần, Tôn nhân phủ Tả tôn chính, Đặc tiến tráng vũ
đại tướng quân. Tiền quân đô thống phủ chưởng phủ sự, đổi tôn thụy là Tác
Vũ, phong là Lạng Giang quận công.