Là con thứ 31 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, mẹ là Lệ tần họ Nguyễn Gia,
con gái của Phó vệ úy Gia Quý, người ở Bình Sơn Quảng Ngãi. Ông sinh
năm Minh Mệnh thứ 7. Lúc mới làm hoàng tử có học hạnh, giữ tính điềm
đạm. Năm thứ 21 phong làm Sơn Tĩnh Quận công. Năm Tự Đức thứ 16, thì
chết, lúc 38 tuổi, thụy là Hòa Hậu, dựng đền trong kinh thành. Có 7 con
trai, 11 gái, con trưởng vợ thứ là Hồng Đình được tập phong Kỳ ngoại hầu.
Quảng Biên Quận công Miên Gia
Con thứ 32 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, em cùng mẹ với Sơn Định
Quận công Miên Cung, sinh năm Minh Mệnh thứ 7. Lúc mới làm hoàng tử,
ra mở phủ riêng học tập kinh sử. Năm Thiệu Trị thứ 3, phong làm Quảng
Biên Quận công. Năm Tự Đức thứ 28, thì chết, lúc 50 tuổi, thụy là Cung
Lượng, dựng đền ở ấp Đông Trì huyện Hương Trà. Có 15 con trai, 11 gái.
Con trưởng là Hồng Đôn tập phong Kỳ ngoại hầu.
Lạc Biên Quận công Miên Khoan
Con thứ 33 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, mẹ là Quí nhân họ Lương,
người ở Phù Mỹ, Bình Định, con gái của Đình Suy, được truy tặng Cẩm y
Hiệu úy; ông sinh năm Minh Mạng thứ 7. Lúc mới làm hoàng tử có học
hạnh. Năm thứ 21, phong làm Lạc Biên Quận công. Năm Tự Đức thứ 7,
mùa xuân, tháng 2, vua thăm nhà thái học, công theo hầu, vâng lệnh ứng
chế 12 bài ca Thị học.
Bài thứ 1. - Nước Nam sinh ra vua thán
h, nhân như trời trí như thần. Nối theo công liệt người trước, ngự trị ức
triệu nhân dân, trị hóa thấm khắp, rộng ban ân chiếu, xa gần đội đức, như
gần mặt trời, mong đám mây.
Bài thứ 2. - Cả nước thanh bình. Các quan xứng chức, như mặt trời ấm giữa
trưa, như gió hòa 8 cõi, dân nhân đông nhiều, người cày ruộng người dệt
cửi, ăn uống làm nghỉ thoải mái, quên cả công đức của nhà vua.
Bài thứ 3. - Giúp đỡ sửa sang, đều biết lòng trung. Man di qui thuận, thiên
hạ thống nhất, việc binh không dùng, văn hanh thông. Vãn hóa như sao
khuê, sao bích sáng tỏ. Đạo và đức đều tốt cả.
Bài thứ 4. - Kính nghĩ hoàng đế ta. Thánh học trời phú cho, trong triều
ngoài nội đầy đủ văn chất, nhà nào cũng đàn hát học hành, đọc thơ Lộc