Năm trước xe qua nghe ca hát nhộn nhịp,
Sớm nay thuyền dạo thấy huệ lan khô héo,
Đám mây bay tụ tán không bao giờ nhất định,
Giấc mộng vui buồn lại chẳng mấy chốc,
Việc cũ chẳng nên bàn cãi làm gì nữa,
Tấc lòng ta từ ngoài thành ra gió lạnh.
Bài thứ III
Phiên âm: Tinh vệ u hồn hà xứ tầm, kinh qua dao diếu lính ba tản, Thường
Sơn trì quán hoa thông lạc, cấm thủy lâu đài nguyệt tự trầm, giang tác ly
thanh truyền khúc chữ, nhạn kinh thất tự oán hàn lâm, hồi khan ai lạc thành
như mộng, diếu diếu ba đào tứ bất câm.
Dịch nghĩa:
U hồn chim tinh vệ biết tìm ở chốn nào,
Đi qua xa thương làn sóng xanh biếc,
Ao quan ở Thường Sơn, hoa tự rơi rụng
Lâu đài ở Cấm Thủy bóng trăng tự chìm lặn,
Nước chảy ở khúc sông gẫy khúc thành ra tiếng ly biệt.
Nhạn kinh lạc bạn oán trách rừng sâu lạnh lẽo,
Xem lại chuyện đời buồn đều như giấc mộng cả,
Sóng nước mênh mang không cầm nổi tình thương xót.
Năm thứ 2 là năm Tân Dậu mùa xuân, vua đến nhà thờ chúa rót rượu tế, lại
làm thơ rằng:
Phiên âm:
Tỉ tỉ nguyên phi thiểu, đồng bào chỉ nhị nhân, văn thư tằng vi bảo, chử chúc
vị năng thân, ôn thanh bằng thùy cọng, ưu lao độc ngã tần, vãn tu liêu điện
giả, kiến nguyệt bội thương thần.
Dịch nghĩa:
Chị ta nguyên chẳng trẻ,
Ruột thịt chỉ hai tên,
Nghe sách từng quên đói,
Nấu nướng chẳng hề quen,
Thương nhau chung ấm lạnh,