chết ở chỗ làm quan.
Năm Minh Mạng thứ 2, đỗ Hương tiến; thăng dần đến Án sát sứ Sơn Tây,
bị tội phải mất chức, sau được khôi phục Hàn Lâm viện trước tác.
Thực
Tên là Bội Phủ, năm Minh Mạng thứ 15, đỗ Hương tiến, được bổ Tri huyện
Hoành Bồ, thăng dần đến án sát sứ Biên Hòa. Sau lĩnh Bố chính sứ Gia
Định, bị mất chức, phải về, sau khởi phục đãi chiếu.
Dác
Lúc đầu tên là Chù, năm Tự Đức thứ 18, đỗ Phó bảng, bắt đầu bổ Tri huyện
Mỹ Lộc, vì việc bị mất chức. Sau đi theo quân thứ ở Bắc Biên, được khởi
phục, trải làm đến Thương biện quân vụ Thái Nguyên. Vì có văn học, được
triệu vào thi, giị giảng, rồi lĩnh Bố chính sứ Thái Nguyên. Sau tự xin đi đồn
điền. Đầu năm Kiến Phúc bị bệnh, về nghỉ.
Nguyễn Bá Thân
Tên tự là Duy Nhạc, người huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa; thuở nhỏ thích
đọc sách, tính trầm tĩnh.
Năm Gia Long thứ 18, đỗ Hương cống, bắt đầu bổ Tri huyện Lệ Thủy, rồi
đi Tri huyện Gia Lộc.
Đầu năm Minh Mạng, chuyển vào trong làm Tào lang; rồi thăng bổ Án sát
sứ Quảng Bình; vì có tang cha, nên xin nghỉ việc về quê ở. Chợt gặp có
giặc, Bá Thân đem quân họp giữ, được đặc cách khen thưởng.
Năm thứ 15, bổ Lang trung bộ Lễ, biện lý việc Bộ; rồi thăng làm án sát sứ
Khánh Hòa, vì việc bị tội mất chức. Về sau được khai phục tư vụ, thác bệnh
xin về.
Bá Thân áp đặt việc nhà có phép. Được 9 người con, thì 3 người đỗ Hương
tiến. Lúc chết tuổi mới 50, vì người con thứ là Tu quí hiển, nhiều lần được
tặng hàm Thái Thường tự khanh.
Tu
Tên là Tiến Chi, năm Tự Đức thứ 8, đỗ Hương tiến, do Hàn Lâm thăng dần
lên, đầu Tri phủ Thuận Thành. Tại chức được 1 kỳ khảo cống (3 năm) thì
triệu về bổ Viên ngoại lang bộ Hộ, sau thăng lên Lang trung.