ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 223

Xuân Kình, tên tự là Tử Anh, Tự Đức năm thứ 14 (1861), chân cử nhân sơ
bổ Tri huyện Quế Dương, rồi triệu về bổ Giám sát ngự sử, chuyển đi quản
đạo Hà Tĩnh, trải qua án sát Tuyên Quang, Biện lý ba bộ Lại, Hình, Công,
ra lĩnh Bố chánh sứ Quảng Bình, thời bị biếm đổi Lang trung Lại bộ. Hồi
đầu niên hiệu Kiến Phúc (1884) lĩnh án sát sứ Ninh Bình rồi về hưu.

Huy Tiến, Tự Đức năm thứ 20 (1867), chân cử nhân sơ bổ đi Dực Thiện,
rồi Tri huyện Tiền Hải. Hồi đầu niên hiệu Kiến Phúc (1884) lĩnh viên ngoại
lang Bộ Lại rồi đổi sung Sơn phòng sứ Thanh Hóa. Con là Khắc Doãn, đỗ
hương giải.

Phạm Huy Bính

Tự là Nguyên Bưu, người Vĩnh Lộc thuộc Thanh Hóa. Thiệu Trị năm thứ 3
(1843) đỗ hương tiến. Tự Đức năm thứ 7 (1854) bổ Hà Nội kinh lịch, rồi
trải qua Tri huyện Thạch An, Thủy Đường kế đó cất lên chức Đồng tri lĩnh
tri phủ Ninh Giang. Năm thứ 16 (1863) triệu về làm Sử quán biên tu. Một
thời gian lâu, đi lĩnh đốc học Quảng Bình, chuyển về Lang trung Công bộ,
rồi bổ án sát Khánh Hòa. Sau đó đổi làm Hồng lô tự khanh sung chức Sử
quán toản tu. Huy Bính sớm nổi danh là người tài trí, làm quan suốt gần 30
năm, đến lúc tuổi già được bổ nhiệm vào chức vụ trong Sử quán, thời bị
bệnh về, rồi mất năm 84 tuổi. Con là Khai, đỗ tú tài.

>

Dương Don Hài

Tự là Ngu Doãn, người Quỳnh Lưu thuộc Nghệ An. Tổ bốn đời là Lệ, đỗ
chế khoa đời Lê, làm Hữu thị lang Lại bộ. Doãn Hài lúc trẻ thông minh
lanh lợi, Tự Đức năm thứ 3 (1850) đô hương giải, bổ Hàn lâm viện kiểm
thảo. Khoảng đầu niên hiệu Tự Đức bổ Tri huyện Bất Bạt rồi thăng Tri phủ
Thăng Bình, hết lòng làm việc, được dân phủ ca tụng. Năm thứ 2 (1856) đi
thự Đốc học Bình Định. Gặp bấy giờ Nam kỳ hữu sự, Tổng đốc Phạm Quỹ

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.